Luận án Thạch luận các thành tạo Granitoid phức hệ Mường Lát thuộc đới Tây Bắc bộ và khoáng hóa liên quan

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Thạch luận các thành tạo Granitoid phức hệ Mường Lát thuộc đới Tây Bắc bộ và khoáng hóa liên quan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Thạch luận các thành tạo Granitoid phức hệ Mường Lát thuộc đới Tây Bắc bộ và khoáng hóa liên quan

Với l = 6,54´10-12 và 144Nd được sử dụng như là đồng vị so sánh, bởi vì số lượng nguyên tử 144Nd trong một đơn vị khối lượng đá hoặc khoáng vật không thay đổi, trong khi đó hệ là kín đối với Nd. Xác định tuổi bằng phương pháp Sm - Nd thường tiến hành phân tích các khoáng vật tách hoặc phân tích một seri đá, có tỉ lệ Sm/Nd biến thiên đủ lớn tạo ra độ nghiêng của đường đẳng thời trong hệ toạ độ 143Nd/144Nd (y) và 146Sm/144Nd (x). Các đường đẳng thời Sm-Nd cung như ở phương pháp Rb - Sr, Cần chú ý các đường đẳng thời khoáng vật Sm - Nd và Rb - Sr cho phép phán đoán tuổi kết tinh của các đá magma. Điều này chỉ có thể khi tổ hợp cộng sinh các khoáng vật là đảm bảo chắc chắn, hay nói cách khác, các khoáng vật được thành tạo cân bằng với nhau trong một giai đoạn, mà không phải do kết quả của một vài giai đoạn tách rời nhau về mặt thời gian. Để kiểm soát có sự phá huỷ quan hệ đồng vị trong các khoáng vật hay không, cần phân tích một mẫu đá tổng. Và nếu mẫu này là một trong các điểm trên đường đẳng thời của các khoáng vật, thì chứng tỏ các khoáng vật cân bằng trong một hệ. Khi biến đổi nhiệt dịch hoặc phong hóa trên mặt có thể phá huỷ hệ thống đồng vị trong khoáng vật, khiến các xác định tuổi không chính xác. Vì thế tiêu chuẩn tươi là tiêu chuẩn hàng đầu khi lựa chọn các khoáng vật để xác định tuổi. Ngoài ra hệ thống đồng vị bị phá vỡ do các đồng vị phóng xạ bị khuyếch tán mà không gây ra sự biến đổi nào thấy được ở các khoáng vật. Phương pháp xác định tuổi đồng vị U - Pb zircon Phương pháp này dựa trên sự phân rã hạt nhân U cho ra Pb. Trong thiên nhiên U có 3 đồng vị 238U, 235U và 234U, trong đó 2 đồng vị đầu là chủ yếu. Chì có 4 đồng vị tự nhiên là 208Pb, 207Pb, 206Pb và 204Pb, trong đó 204Pb là đồng vị hoàn toàn không có nguồn gốc phóng xạ, các đồng vị còn lại thường bao gồm một thành phần có nguồn gốc phóng xạ và một không có nguồn gốc phóng xạ. Dựa trên quan hệ đồng vị mẹ/con (U/Pb và Pb/Th), khi hệ phóng xạ đạt trạng thái cân bằng, có cả thảy 3 khả năng độc lập để tính tuổi như sau: t = (1/λ238) ln ((206Pb/ 238U) + 1) (5) t = (1/ λ235) ln ((207Pb/ 235U) + 1) (6) t = (1/ λ232) ln ((208Pb/ 232Th) + 1) 61 Trong đó t là tuổi (triệu năm), λ là hệ số phân rã của đồng vị mẹ 238U = 1,5512510-10 và thời gian bán rã: 4,468109 yr, 235U = 9,848510-10 và thời gian bán rã: 0,7038109 yr, 32Th = 4,947510-11 và thời gian bán rã: 14,05109 yr, còn lại là các tỉ số đồng vị con/mẹ tương ứng. Biểu đồ Concordia theo Wetherill Wethrill (1956) đã phát minh ra biểu đồ đẳng thời Concordia và xác định ý nghĩa của các điểm concordant và discordant (tương hợp và không tương hợp). Một điểm tương hợp là trong đó hai tỷ lệ đồng vị 206Pb/238U, 207Pb/235U với cùng một độ tuổi nhất định. Một điểm không tương hợp là một điểm thể hiện tỷ lệ 206Pb/238U, 207Pb/235U đo được trong vật chất tại thời điểm phân tích. Sự phân rã tự nhiên của U thành Pb cho ta hai đồng hồ địa chất độc lập được tính bằng hai phương trình (5) và (6) đây cũng là các phương trình thông số của đường cong được Wetherill G.W,gọi là đường cong phù hợp (concordia). Đường cong này(hình 2.7) được thiết lập theo số liệu (bảng 2.4). Khi tuổi của hệ U-Pb được tính bằng phương trình (5) giống với tuổi được tính bằng phương trình (6), các giá trị tuổi đó được biểu diễn trên một đường cong là đường đẳng thời tương hợp concordia vì có sự tương hợp giữa hai đồng đồ nêu trên. Đường concordia là cố định cho mọi đối tượng địa chất được xác lập theo hai thông số 206Pb/238U, 207Pb/235U từ thời điểm bằng 0 (hiện tại) tới thời điểm sinh thành giả định của Trái Đất (cách đây 4,6 tỷ năm trước). Trường hợp này có được khi hệ U - Pb đóng kín, không có sự mất mát chì trong tiến trình lịch sử, nó được tích hợp toàn bộ trong khoáng vật (ví dụ như zircon). Đó là trường hợp rất lý tưởng. Tuy nhiên trong thực tếxác định tuổi theo zircon thường không phù hợp. Zircon lấy từ xâm nhập có thành phần khác nhau hoặc zircon của các phần khác nhau (có đặc điểm khác biệt như hình dạng, kích thước, màu sắc, khác nhau) thuộc cùng một mẫu trên toạ độ 206Pb/238U - 207Pb/235U tạo nên đường thẳng không phù hợp (disconcordia). Đường không phù hợp cắt đường phù hợp tại hai điểm. Thông thường giá trị tuổi tại giao điểm trên được luận giải là tuổi kết tinh của đá, còn giao điểm dưới phản ánh thời gian biến chất của đá. Tuy nhiên không hiếm các đá magma (đặc biệt granitoid) có nguồn gốc nóng chảy vỏ cổ chứa các hạt zircon cổ, hoặc tàn sót trong các hạt zircon phát triển kế thừa sau. Trong trường hợp như thế, giao điểm trên ghi nhận tuổi của nguồn vỏ, còn giao điểm dưới chỉ tuổi kết tinh của các hạt zircon, tức tuổi kết tinh của đá chứa zircon. Zircon kế thừa là zircon bị dung thể bắt 62 cóc từ các đá cổ vây quanh. Cần chú ý, có những cách giải thích khác cho đường không phù hợp, như có sự mất Pb liên tục do khuyếch tán, hoặc do phong hóa hóa học lên tinh thể khoáng vật. Và giao điểm dưới nằm trùng với gốc toạ độ, như vậy giao điểm dưới không có ý nghĩa địa chất. Để khẳng định kết quả phân tích một cách chắc chắn, có thể sử dụng phương pháp độc lập - phương pháp U - Pb định tuổi theo apatit hoặc sphen cùng nguồn. Phân tích những khoáng vật này cho kết quả rơi hoặc vào chính giao điểm dưới, hoặc kề cận với nó. Đôi khi các zircon từ các đá magma sắp dọc theo đường không phù hợp gần với giao điểm dưới. Trong trường hợp này thường giải thích chúng là zircon kế thừa, các zircon này trong magma nóng đã bị mất hoàn toàn Pb phóng xạ sinh đã được tích tụ ban đầu. Hình 2.7.Biểu đồ đường đẳng thời tương hợp và đường đẳng thời không tương hợp thể hiện quan hệ đồng vị phóng xạ U-Pb (Parrish and Noble, 2003). Bảng 2.4. Trị số để thiết lập đường cong U-Pb phù hợp và tỉ lệ 207Pb/206Pb Tỉ năm 205Pb/238U 207Pb/235U 207Pb/206Pb 0,0 0,0000 0,0000 0,04604 0,2 0,0315 0,2177 0,05012 0,4 0,0640 0,4828 0,05471 0,6 0,0975 0,8056 0,05992 0,8 0,1321 1,1987 0,06581 1,0 0,1678 1,6774 0,07250 1,2 0,2046 2,2603 0,08012 1,4 0,2426 2,9701 0,08879 l,6 0,2817 3,8344 0,09872 1,8 0,3221 4,8869 0,11000 2,0 0,3638 6,1685 0,12298 63 Tỉ năm 205Pb/238U 207Pb/235U 207Pb/206Pb 2,2 0,4067 7,7292 0,13783 2,4 0,4511 9,6296 0,15482 2,6 0,4968 11,9437 0,17436 2,8 0,5440 14,7617 0,19680 3,0 0,5926 18,1931 0,22266 3,2 0,6428 22,3716 0,25241 3,4 0,6946 27,4597 0,28672 3,6 0,7480 33,6556 0,32634 3,8 0,8030 41,2004 0,37212 4,0 0,8599 50,3878 0,42498 4,2 0,9185 61,5752 0,48623 4,4 0,9789 75,1984 0,55714 4,6 1,0413 91,7873 0,63930 2.2.7. Tính chuyên hóa địa hóa và sinh khoáng magma * Tính chuyên hóa địa hóa Tính chuyên hóa địa hóa (và tạo khoáng) của magma là những đặc điểm về hành vi của các nguyên tố, hợp chất (và những kim loại) trong đá khi hàm lượng trung bình của chúng vượt quá hàm lượng Clark nhiều lần. Thực tế cho thấy, không phải bất kỳ magma nào cũng chứa một lượng kim loại đủ để tạo mỏ và cũng không phải tất cả magma chứa kim loại là nhất thiết phải tạo được mỏ. Vấn đề này góp phần giải thích tại sao lại có sự phân bố không đồng đều các mỏ khoáng trong vỏ trái đất. Để đánh giá tiềm năng chứa quặng và khả năng tạo quặng của magma cần nghiên cứu tính chuyên hoá địa hoá của magma, cụ thể là của các phức hệ magma. Trong nghiên cứu, các nhà địa chất chủ yếu quan tâm đến địa hoá của các nguyên tố phụ có trong đá magma và quan hệ của chúng với các nguyên tố tạo đá chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong mỗi loại đá magma thường có mặt một số nguyên tố phụ nhất định, cụ thể: - Trong đá mafic và siêu mafic chiếm ưu thế là các nguyên tố Mg, Ca, Ti, V, Mn, Fe, Co, Pt, Ni, Au, Ag, Cu, Zn, Cd, S,... - Trong đá thành phần trung tính chiếm ưu thế là các nguyên tố Sr, Ba, Na, Y, Zr, Hf, Al, B, As, Cl,... 64 - Trong đá thành phần acid chiếm ưu thế là các nguyên tố Ba, Li, Na, K, Hf, Ta, Th, U, Pb, Sn, Ge, Cl, F ... - Trong đá kiềm chứa nephelin tương tự như đá trung tính, nhưng có bổ sung đất hiếm, Nb, Ta, Ga ... Các đá granitoid liên quan với nhiều khoáng sản có ý nghĩa đối với nền kinh tế. Giá trị hàm lượng của các nguyên tố kim loại quan trọng theo Whalen et al., 1987, Chappell and W hite, 1992, Wedepohl, 1995, and Konopelko et al., 2009. Phần lớn các nguyên tố tạo quặng trong granit thộc về giai đoạn nhiệt dịch, nhưng lại phân bố rất không đều trong các kiểu thạch luận - granit . - S_granit: có nguồn gốc từ sự tái nóng chảy một phần của vỏ lục địa, do đó trong S - granit đã được làm giầu các nguyên tố lithophil (Sn, W và U, như Nb, Ta, Be và Li). Tuy nhiên điều kiện thành tạo cũng như hình thành của các khoáng vật trong quá trình biến chất, sẽ quyết định đến sự phân bố của các kim loại. Ví dụ trong điều kiện áp suất thấp, cordierit được hình thành, nó sẽ thu hút nguyên tố Be, do đó trong dung thể magma sẽ nghèo Be. Trong magmaS -granit khá giàu nước là kết quả quá trình khử hydrat các khoáng vật chứa nước. Chính vì vậy rất nhiều thể pegmatit của S - granit rất giầu các nguyên tố flo và kim loại, như tantalum (Ta) và thiếc (Sn). Các đá S - granit thường có chứa ilmenit, Sn+2 là nguyên tố không tương thích, do đó, thiếc được giữ lại trong môi trường lỏng, là tiền đề tạo nên các thân quặng thiếc trong giai đoạn nhiệt dịch. Ngược lại, trong các đá magma có độ fugat oxy cao, thiếc tồn tại dưới dạng Sn+4, dễ đi vào các ô mạng các khoáng vật magma sớm và thay thế cho Ti+4. Chính vì vậy, các đá I - granit có chứa magnetit, không bao giờ có các tích tụ thiếc quy mô lớn. - I_granit: Các nguyên tố chalcophil có ái lực cao với lưu huỳnh, gồm Cu, Mo, Ag, Au thường được tìm thấy trong các thân quặng liên quan đến loại I- granit. Các mỏ quặng porphyr đồng, liên quan với I-granit, chiếm khoảng 20% từ 500 trữ lượng quặng trên toàn thế giới (Laznicka, 1999). Các mỏ này nằm trong các đới hội tụ giữa mảng đại dương và mảng lục địa trên các vùng rìa lục địa tích cực. - A_granit: Các đá A-granit, nhất là các thành tạo pegmatit rất giầu các nguyên tố F, lantanoit và các nguyên tố có trường lực cao (HFSE), và do đó chúng là nguồn 65 các mỏ quặng Zr, Nb, REE, và F. Nguyên tố Flo (F) thường thay thế OH trong các khoáng vật như biotit, phlogopit, amphibol ở lớp dưới của vỏ lục địa. Trong dung thể magma tương đối giầu halogen (F, Cl), do đó độ nhớt giảm đáng kể, tạo nên các hợp chất phức với một số nguyên tố Zr, Nb, REE, và có thể là Sn, Zn và W trong dung dịch nhiệt dịch. * Mối quan hệ giữa magma và quặng hóa Khái niệm mối quan hệ giữa magma và quặng hoá được dùng khi nghiên cứu nguồn gốc magma. Để xác định mối quan hệ này đối với một mỏ bất kỳ trong một vùng nào đó thường dựa vào các tiêu chuẩn sau: - Tiêu chuẩn về kiến trúc địa chất: Quặng hoá và magma trùng với một kiến trúc (khu vực địa phương) và cùng thành tạo trong một giai đoạn của chu kỳ magma - kiến tạo. Độ sâu thành tạo của mỏ và phức hệ magma tương đương nhau. Mức độ biến chất của chúng tương đồng nhau (nếu có). Có sự phân bố thành đới của thành hệ quặng và các biểu hiện quặng hoá đối với khối magma. - Tiêu chuẩn về khoáng vật - thạch học: Mỗi đá magma chỉ có thể có mối liên quan thường xuyên với một số thành hệ quặng, mỏ quặng đặc trưng và sự sắp xếp các mỏ có thành phần khác nhau cùng tuân theo những quy luật nhất định. Đối với khối xâm nhập, thành phần vật chất của mỏ là một bộ phận hợp thành của thể xâm nhập, giống nhau về thành phần khoáng vật phụ của đá magma và thành phần quặng. Trong đới tiếp xúc của xâm nhập có phân tán quặng giống thành phần của mỏ. - Tiêu chuẩn địa hoá: Giống nhau về những nguyên tố hoá học trong đá và quặng (đặc biệt là các nguyên tố tạp chất trong các khoáng vật màu và khoáng vật phụ); giống nhau về thành phần đồng vị của các nguyên tố gặp trong đá và quặng, tuổi tuyệt đối của xâm nhập và mỏ. Theo tính chất của mối quan hệ này, các nhà khoa học phân biệt: + Mối liên quan nguồn gốc giữa magma và quặng hoá Thuộc mối quan hệ này nếu như đá magma là nguồn trực tiếp của các mỏ quặng tổ hợp với nó; trong đó quá trình khoáng hóa là một bộ phận của những quá trình hóa- lý chung diễn ra khi kết tính magma. Ví dụ các mỏ magma thật sự và thể magma chứa chúng. Đối với những phức hệ magma nhất định cũng chỉ có thể có một số loại mỏ 66 nhất định có liên quan về nguồn gốc; ví dụ:Khoáng hóa cromit, titanomagnetit liên quan với các phức hệ đá siêu bazơ; khoáng hóa kim loại hiếm (Sn, W, Mo) liên quan với các phức hệ granitoid,...v.v. + Mối liên quan có tính chất cộng sinh giữa quặng và đá magma Mối liên quan có tính chất cộng sinh khi các phức hệ magma xâm nhập, á xâm nhập, phun trào có quan hệ về không gian và thời gian với quặng hóa, nhưng không phải là nguồn cung cấp trực tiếp vật chất quặng. Chúng (mỏ và các thế đá magma) có thể là những sản phẩm phân dị từng phần của một lò magma nằm ở sâu hơn mà chưa quan sát thấy. Trong thực tế, không phải lúc nào cũng có thể xác định được đầy đủ các tiêu chuẩn nêu trên. Do vậy, tùy thuộc vào mức độ nghiên cứu, mối quan hệ trên có thể được xác lập theo từng khía cạnh như: Liên quan về không gian và thời gian (gần nhau một cách tương đối về thời gian thành tạo giữa magma và quặng hoá), liên quan về kiến trúc (sự phân bố của các thành tạo magma và quặng hoá trong cùng một kiến trúc). + Mối liên quan có tính chất không gian giữa quặng và đá magma Quan hệ không gian giữa quặng hóa và đá magma là quan hệ khi quặng hóa và đá magma tuy phân bố gần nhau, nhưng chúng không có quan hệ nguồn gốc với nhau hay không cùng liên quan tới một thể xâm nhập sâu nào đó. * Phân chia mức độ bóc mòn của thể xâm nhập granitoid Thực tế hiện nay hầu như chưa có các tiêu chí phân chia mức độ bóc mòn của thể xâm nhập granitoid. Về đại thể, có thể phân chia mức độ bóc mòn của các khối magma xâm nhập granitoid một cách rất tương đối thành 4 mức (hình 2.8). Magma ẩn: Khối magma chưa được bóc lộ trên mặt đất, chúng còn nằm ở sâu dưới tầng đá vây quanh. Magma bóc lộ đỉnh: Khối magma có mức độ bóc lộ rất ít, diện tích lộ rất không lớn, các khối lộ ra trên mặt đất chỉ là các apophyr có quy mô cực kỳ bé nhỏ. Magma bóc lộ phần thân: Diện tích các khối magma tương đối lớn, có thể đến vài chục km2, thành phần tương đối đồng nhất. Magma bóc lộ phần chân: Toàn bộ phần trên của khối magma đã bị bóc mòn, lộ ra phần chân của khối với diện tích lớn. 67 Hình 2.8. Mức bóc mòn của thể xâm nhập granitoid 2.2.8. Xử lý kết quả phân tích Các kết quả phân tích thành phần khoáng vật, địa hóa nguyên tố chính và hiếm vết, tuổi đồng vị được xử lý trên các phần mềm vi tính chuyên ngành như Excel, Minpet, Igpetwin, Isoplot 3,Creldraw 12. 68 CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT, THẠCH ĐỊA HÓA GRANITODPHỨC HỆ MƯỜNG LÁT 3.1. Đặc điểm địa chất Phức hệ Mường Lát, khu vực đới khâu Sông Mã, tây bắc Việt Nam, gồm các khối Mường Lát, Sầm Sơn và Làng Bông, trong đó khối Mường Lát chiếm diện tích lớn nhất của phức hệ Mường Lát khoảng 3/4 diện tích. Khối Mường Lát nằm về phía đông của bản cùng tên thuộc tỉnh Thanh Hóa, dọc theo trung lưu Sông Mã. Khối có dạng kéo dài 30km theo hướng á vĩ tuyến, rộng 6-16km, diện tích khoảng 300km2. Khối được cấu thành chủ yếu bởi granit hai mica, và gồm nhiều pha: Pha 1-granit hai mica hạt vừa-lớn, porphyr yếu; pha 2-granit hai mica hạt nhỏ, từ sẫm màu đến xám sáng và granit turmalin-muscovit sáng màu; các đá mạch aplit và pegmatit. Granitoid Mường Lát xuyên cắt và gây biến chất tiếp xúc các đá vây quanh. Tại ranh giới phía tây, phía bắc và phía nam khối quan sát thấy granitoid xuyên cắt đá phiến thạch anh- mica-granat và gneis microlin dạng mắt thuộc hệ tầng Nậm Cô(PR2-€1nc) có tuổi Proterozoic. Ranh giới tiếp xúc của granit và hướng sắp xếp của các ban tinh feldspar trong chúng cắt ngang phương cấu tạo dạng gneis. Ở phía tây khối granitoid xuyên qua trầm tích Paleozoi hạ của điệp Sông Mã (€sm). Do đó, granitoid khối Mường Lát phải có tuổi trẻ hơn Paleozoi hạ (Thuc and Trung 1995). Gần tiếp xúc với granit các đá trầm trên biến thành đá phiến mica chứa granat, andalusit, đá phiến lục chuyển thành đá phiến actinolit-biotit. Mức độ biến chất giảm dần khi ra xa tiếp xúc (đá phiến mica đá phiến vi mica phylit đá phiến sét).Trung tâm của phức hệ Mường Lát đến phía đông, đá lộ khá tốt, hầu hết các đỉnh núi cao là đá granit, có một số nơi quan sát rõ các thể tù của đá vây quanh làđá biến chất của hệ tầng Nậm Cô (ảnh 3.1, 2), điều đó cho thấy mức độ bóc mòn phần vòm của khối khá mạnh. Phía bắc khối thuộc diện lộ của hệ tầng Nậm Cô và hệ tầng Sông Mã lộ khá nhiều các đai mạch aplit granit, pegmatit granit, đôi khi thấy các thể nhỏ vài mét granit porphyr, cho thấy có thể tồn tại các thể granit của phức hệ ở dưới sâu. Phía tây của phức hệ, thuộc khu vực xã Tam Chung lộ ra các đá granit xuyên cắt và bắt tù đá trầm tích của hệ tầng Nậm Cô (ảnh 3.3), các đá của hệ tầng bị migmatit hóa và gneis hóa (ảnh 3.4). Ngoài ra còn gặp một số thể granit của phức hệ có diện tích 0,3 - 5km2 dạng vệ tinh của khối Mường Lát, cho thấy mức độ bóc mòn ở khu vực này kém hơn. 69 Granitoid khối phức hệ Mường Lát có cấu tạo khối, kiến trúc hạt nửa tự hình đặc trưng. Qua khảo sát thực địa, thành phần thạch học đặc trưng của phức hệ gồm: Granit biotit, granit 2 mica hạt vừa đến thô và granit 2 mica hạt nhỏ (ảnh 3.5, 6, 7), ngoài ra còn có các mạch granit aplit, granit pegmatit (ảnh 3.8). Ảnh 3.1.Thể tù đá phiến thạch anh biotit hệ tầng Nậm Cô trong granit phức hệ Mường Lát tại MLT.34 Ảnh 3.2.Thể tù đá phiến thạch anh biotit hệ tầng Nậm Cô (1) trong granit phức hệ Mường Lát (2) tại MLT.34/1 Ảnh 3.3.Granit hai mica hạt vừa (1) xuyên cắt đá phiến thạch anh - biotit (2) hệ tầng Nậm Cô tại MLT.27/2 Ảnh 3.4.Đá hệ tầng Nậm Cô tại MLT.01 bị migmatit hóa, nhiều khả năng do các thành tạo granit phức hệ Mường Lát xuyên cắt tạo nên 70 Ảnh 3.5.Granit 2 mica hạt vừa - lớn tại MLT.07 Ảnh 3.6.Granit biotit tại MLT.09 Ảnh 3.7.Granit 2 mica hạt nhỏ sáng màu tại MLT.26 Ảnh 3.8.Pegmatit granit ngoài thực địa có quan hệ xuyên cắt granit 2 mica tại MLT.42a 3.2. Đặc điểm thạch học Các đá granitoid phức hệ Mường Lát chủ yếu gồm 2 pha: Pha 1 (γT2ml1) có 2 tướng Tướng hạt thô: granit biotit, granit hai mica sẫm màu, hạt vừa đến lớn. Tướng hạt nhỏ: granit muscovit, granit hai mica sáng màu hạt nhỏ. Pha 2 (γT2ml2): aplit granit, pegmatit granit khá sáng màu. Các đá có cấu tạo chủ yếu khối và định hướng, kiến trúc nửa tự hình đến tự hình, thành phần thạch học của từng loại đá được chi tiết hóa như sau: 71 3.2.1. Granit hai mica hạt lớn Granit hai mica hạt lớn (MLT.02, MLT.06, MLT.08, MLT.09/1,): Chiếm khối lượng chủ yếu trong tổ hợp thạch học của phức hệ, đá có kích thước vừa đến thô. Đá sáng màu đến sẫm màu, cấu tạo khối, kiến trúc hạt vừa - lớn và nửa tự hình. Các khoáng vật sắp xếp không định hướng. Thành phần khoáng vật (%): thạch anh: 25 - 35; plagioclas: 20 - 30; muscovit: 3 - 8; biotit: 1 - 5; felspat kali (orthoclas, microclin): 30 - 38; turmalin: 0 - 5; zircon: 0 - ít; silimanit: 0 - 5; ilmenit: 0,5 - 1. 3.2.2. Granit biotit Granit biotit (MLT.09, MLT.35,...): Kém phổ biến trong phức hệ. Đá sẫm màu, cấu tạo khối, kiến trúc hạt vừa - lớn và nửa tự hình. Các khoáng vật sắp xếp không định hướng. Thành phần khoáng vật (%): thạch anh: 2 5- 33; plagioclas: 25 - 33; biotit: 5 - 10; felspat kali (orthoclas, microclin): 30 - 35; zircon: 0 - ít; ilmenit: 0,5 - 1. 3.2.3. Granit muscovit Granit muscovit (MC.9393/1, MC.1447/3,...): Khá phổ biến trong thành phần của phức hệ, đá sáng màu, cấu tạo khối, kiến trúc hạt nửa tự hình. Thành phần khoáng vật (%): plagioclas: 29 - 35; felspat kali (orthoclas, microclin): 34 - 36; thạch anh: 20- 27; muscovit: 3-7; zircon: ít; apatit: vài hạt; ilmenit: ít. 3.2.4. Granit hai mica hạt nhỏ Granit hai mica hạt nhỏ (MLT.17,MLT.27/1, MLT.34,):Khá phổ
File đính kèm:
luan_an_thach_luan_cac_thanh_tao_granitoid_phuc_he_muong_lat.pdf
Thong tin tom tat ve KL moi cua LATS.pdf
Tom tat LA T.Anh.pdf
Tom tat LA T.Viet.pdf