Luận án Tổ chức môi trường ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng hiện đại và phát huy giá trị truyền thống
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Tổ chức môi trường ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng hiện đại và phát huy giá trị truyền thống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Tổ chức môi trường ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng hiện đại và phát huy giá trị truyền thống
ống kê [82], khu vực ĐBSH năm 2005 là 10960 trang trại, năm 2012 sơ bộ có 4472 trang trại, tức là đã giảm 6598 trang trại. Số trang trại 4472 sơ bộ của năm 2012 thì trong đó có: 35 trang trại trồng trọt, 3174 trang trại chăn nuôi, 986 trang trại nuôi trồng thủy sản và 227 các trang trại khác. Đối với lĩnh vực trồng trọt (cây có hạt) ở khu vực ĐBSH theo số liệu thống kê [82]: năm 2005 là 1274,5 nghìn ha, năm 2012 là 1225,8 nghìn ha, diện tích trồng trọt các cây có hạt đã giảm 60 khoảng 50 nghìn ha. Tuy nhiên thì năng suất lại có chiều hướng tăng, ví dụ đối với sản lượng lúa của vùng ĐBSH các năm là: 2005 khoảng 6398,4 nghìn tấn thì đến năm 2012 đạt khoảng 6872,5 nghìn tấn [82]. - Cơ cấu lao động bước đầu chuyển biến tích cực. Do việc thực hiện đúng chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nông thôn dẫn đến cơ cấu lao động trong các lĩnh vực ngành nghề có sự thay đổi rõ rệt. Theo [79], tính đến 2011, lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản trong cả nước chiếm 59,6%, giảm đáng kể so với mức 70,4% của năm 2006 và 79,6% của năm 2001; Tỷ trọng lao động công nghiệp, xây dựng lần lượt ở các năm 2011, 2006 và 2001 là 18,4%, 12,5% và 7,4%; tỷ lệ lao động dịch vụ là 20,5%, 15,9% và 11,9% ở 3 năm tương ứng. - Kết quả đạt được về chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn năm 2011 tuy có tiến bộ so với các năm 2001 và 2006 nhưng vẫn còn chậm và có khoảng cách xa so với yêu cầu. Trong 10 năm từ 2001-2011, tỷ trọng lao động nông, lâm, thủy sản mới giảm được 20% từ khoảng 80% năm 2001 xuống khoảng 60% vào năm 2011, bình quân mỗi năm giảm được 2%. Tuy kết quả chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn những năm qua diễn ra còn chậm so với yêu cầu, chưa đều giữa các vùng và các địa phương nhưng cũng có điểm mới là xu hướng hoạt động đa dạng ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn ngày càng tăng. Trong tổng số người ở độ tuổi lao động có tham gia hoạt động nông nghiệp trong những năm gần đây thì lao động chuyên nông nghiệp (thuần nông) chiếm khoảng 46%; lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác chiếm khoảng 32,1% và lao động phi nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp chiếm 21,9%. Đáng lưu ý là các làng nghề nông thôn được khôi phục và phát triển, tạo nhiều việc làm, góp phần thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. - Cùng với sự ra đời của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, nhiều làng nghề được khôi phục và phát triển đã thu hút được nhiều nguồn vốn trong dân cư, tạo được việc làm tại chỗ cho hàng chục vạn lao động và đào tạo, bồi dưỡng những lao động phổ thông thành lao động có kỹ thuật. Theo [79] đến năm 2011 cả nước, khu vực nông thôn có 961 xã có làng nghề, chiếm 11% tổng số xã (tỷ lệ tương ứng của các năm 2001 và 2006 lần lượt là 6% và 8%). Số lượng làng nghề cũng tăng: Năm 2011 có 1.322 làng nghề so với 1077 làng nghề của năm 2006 và 710 làng nghề của năm 2001. Các làng nghề đã thu hút 327 nghìn hộ và 767 nghìn lao động thường xuyên. Bình quân 1 làng nghề có 248 hộ và 580 lao động so với 238 hộ và 609 lao động năm 2006. Vùng đồng bằng sông Hồng là khu vực có nhiều 61 làng nghề nhất khoảng: 485 xã (chiếm 50,5% tổng số xã có làng nghề cả nước), 706 làng nghề (chiếm 53% số làng nghề cả nước) và 222 nghìn hộ tham gia với 505 nghìn lao động. 2.2.1.2. Những tác động của cơ cấu kinh tế ảnh hƣởng đến môi trƣờng ở - Rõ ràng có những dấu hiệu tích cực của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ngành nghề nông thôn nói trên, song vẫn chưa khắc phục được sự chênh lệch lớn giữa các khu vực kinh tế - xã hội. Nếu không có các định hướng, giải pháp để hạn chế sẽ dẫn đến việc phát triển không đồng đều, có các khoảng cách trong các vấn đề như: thu nhập, nghèo đói, đời sống, an sinh xã hội, di cư ồ ạt giữa các vùng (để tìm việc làm) gây khó khăn lớn cho công tác quản lý xã hội, ảnh hưởng đến công tác quy hoạch và tổ chức môi trường ở. - Bên cạnh đó, sự phát triển các khu công nghiệp, chế xuất, các ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là làng nghề dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường: nước thải, chất thải do các làng nghề tạo ra gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, đất đai ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi và sức khỏe người dân. Theo số liệu năm 2011 cho thấy, tỷ lệ làng nghề sử dụng thiết bị xử lý nước, chất thải độc hại chỉ đạt 4,1% [79] và thực trạng này đang cho thấy rõ nguy cơ gây ô nhiễm môi trường rất cao của các làng nghề ở nông thôn trong vùng ĐBSH. Thiết nghĩ, những hạn chế, mặt trái của quá trình phát triển là không thể tránh khỏi, vấn đề đặt ra là ngay từ khi bước vào quá trình chuyển đổi cần tính đến các giải pháp đồng bộ, lâu dài về cơ chế chính sách như xây dựng và triển khai có hiệu quả các quy hoạch: tổng thể khu vực nông thôn, phát triển các ngành nghề, lĩnh vực, nguồn nhân lực, đất đai, môi trường, hạ tầng .v.v. Bên cạnh đó là các cơ chế, chính sách an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, chăm lo đời sống, hỗ trợ sản xuất cho các bộ phận, tầng lớp cư dân gặp nhiều khó khăn ở khu vực nông thôn. Có như vậy, các chính sách và quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn mới đảm bảo tính bền vững. Qua xem xét, thấy có các dịch chuyển thành phần lao động, cơ cấu kinh tế ở nông thôn hiện nay có các dạng như sau: - Lao động làm nông nghiệp kết hợp nghề thủ công; - Lao động ở ngành nghề dịch vụ nông nghiệp; - Lao động ở các khu công nghiệp; - Và một bộ phận không nhỏ đi học và chuyển tới làm việc và sinh sống tại các khu đô thị. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động vẫn đang diễn ra, từ dạng cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp, dịch vụ sang dạng cơ cấu công nghiệp, dịch vụ - nông nghiệp, có 62 nghĩa là sự thay đổi các giá trị nông nghiệp truyền thống sang giá trị công nghiệp dịch vụ là chủ yếu. Tuy nhiên nó diễn ra chậm và khó có thể đáp ứng được các yêu cầu công nghiệp vì trình độ còn hạn chế, các điều kiện về hạ tầng chưa thực sự đáp ứng được cho cơ giới hóa, ruộng đất và sản xuất còn manh mún, đại đa số là vẫn chỉ dừng lại ở sản phẩm nông nghiệp thô, chưa có nhiều công nghiệp chế biến. Như vậy, việc tổ chức môi trường ở phải nhìn nhận dưới góc độ thay đổi để phù hợp với yêu cầu mới. Thấy rằng, “cái” truyền thống đang biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau sao cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, nhưng giữ gìn được các giá trị bản sắc là một câu hỏi cần phải trả lời. Cơ cấu chức năng của ngôi nhà ở truyền thống đã được bổ sung thêm hoặc bị cắt giảm bớt. Chẳng hạn, không gian sân phơi nông sản, vườn cây ăn quả và ao thả cá được chuyển đổi một phần sang các nhà xưởng sản xuất thủ công; hàng rào cây dâm bụt, cây chè tàu đã được thay bằng không gian bán hàng dịch vụ bám sát mép đường làng; ngôi nhà năm gian truyền thống chuyển thành nhà hộp bê tông cao tầng giống nhà thành thị. Tất cả đã mang lại cho bộ mặt nhà ở nông thôn thay đổi cả về công năng cũng như hình thức kiến trúc, bắt đầu có sự giằng co giữa cũ và mới (giữa truyền thống và hiện đại), có thể bị phá vỡ các giá trị truyền thống cũng như một số các ưu việt của môi trường ở bền vững nông thôn trước đây. Phân tích một ví dụ (khuôn viên và ngôi nhà ở) khu vực nông thôn bị đô thị hóa: Ngày xưa gia đình người nông dân vùng ĐBSH sống bằng nghề thuần nông, ngày nay một số nơi (do đô thị hóa, hoặc do triển khai các khu công nghiệp) không còn tư liệu sản xuất nông nghiệp (đất đai), họ chuyển sang làm thủ công nghiệp hoặc công nhân các nhà máy, xí nghiệp. Trước đây nhà ở cần có sân phơi nông sản, cần có ao để nuôi cá, cần có chuồng trại để chăn nuôi gia súc, cần có vườn để trồng rau xanh vào lúc thời gian nông nhàn họ còn làm thêm các nghề phụ như đan lát, thêu, làm gốm, mộc, rèn, đúc... Nhà ở người nông dân chuyên làm ruộng thường có sân rộng phía trước nhà để phơi phóng, cũng như làm các nghề phụ khác. Tại các làng nghề thủ công, nơi mà người dân chủ yếu làm các nghề thủ công trong khi làm nông nghiệp lại trở thành nghề phụ, nhà ở còn có khu nhà phụ dành riêng kết hợp với sân chung để làm nghề. Nhưng hiện nay, nếu những hộ không sản xuất nông nghiệp thì không gian sân phơi không còn sử dụng nữa, chuồng trại không còn chăn nuôi, ao cá không có giá trị kinh tế trong khi gia đình người nông dân đang cần không gian để làm nhà xưởng sản xuất thủ công như đan lát, thêu thùa, sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, cơ khí, 63 hoặc cần không gian buôn bán hàng nông sản thì cần phải có nghiên cứu xem lại cơ cấu chức năng về nhà ở cho những dạng này để phù hợp. Ngoài ra, chúng ta thấy rằng do nhu cầu phát triển của xã hội, không gian nhà ở cũng cần thiết phải hiện đại, trang bị tiện nghi sử dụng cao hơn như điều hòa, máy giặt, ti vi, bồn tắm và các chức năng sử dụng cũng phải thay đổi nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt, ăn ở, ngủ, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí và học tập của người nông dân. Do đó, cần thiết phải chuyển đổi không gian nhà ở cho thích nghi với nhu những nhu cầu mới. 2.2.2. Các mô hình sản xuất kinh tế nông nghiệp trong tƣơng lai và ảnh hƣởng của nó đến tổ chức môi trƣờng ở Đảng và Nhà Nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp như: Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia về công nghệ cao đến năm 2020; Đề án phát triển giống 2194; Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; Quyết định số 644/QĐ-TTg ngày 05/5/2014 phê duyệt Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để phát triển các cụm liên kết ngành trong chuỗi giá trị khu vực nông nghiệp nông thôn [105],điều này đã hình thành mối liên kết nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong chuỗi giá trị nông nghiệp. Từ khâu sản xuất đến phân phối, kiểm soát tiêu chuẩn chất lượng, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp; Ứng dụng chuyển giao, tiếp nhận các sản phẩm khoa học và công nghệ giữa các tổ chức, trung tâm nghiên cứu, các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân, tăng cường mối liên kết giữa 4 nhà: Nhà nước - Nhà nông - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp. Trong tương lai có thể có các mô hình sản xuất kinh tế nông nghiệp như sau: - Xét trên phƣơng diện tổ chức sản xuất: Có thể có 5 loại mô hình về tổ chức sản xuất trong tương lai cùng đồng hành như sau (hình 2.5): + Mô hình hộ cá thể; + Mô hình trang trại; + Mô hình hợp tác xã dịch vụ; + Mô hình hợp tác xã liên doanh liên kết với doanh nghiệp; + Mô hình hợp tác xã cổ phần. Một số đã, đang tồn tại và mới hình thành như: Mô hình hộ cá thể, mô hình trang trại; Một số mô hình tương lai như: Liên doanh liên kết với các doanh nghiệp và mô hình 64 hợp tác xã cổ phần có thể sẽ là những mô hình tiên tiến đưa sản xuất nông nghiệp nước ta lên sản xuất lớn, bởi vì có những ưu điểm sau: Tập trung, tập hợp được ruộng đất, không ở tình trạng nhỏ lẻ, manh mún như hiện nay sẽ thuận lợi cho hiện đại hóa về nông nghiệp, nông thôn. Có thể tiến hành cơ giới hóa, tự động hóa để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm; Tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, tiêu thụ các sản phẩm nông dân làm ra, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập; Nông dân không bị mất đất, cái mà nông dân không bao giờ muốn. - Xét trên phƣơng diện sản xuất: Có thể có hai loại sản xuất (hình 2.5) + Canh tác theo phương thức truyền thống: Phương thức này có thể vẫn tồn tại thêm một thời gian không ngắn vì điều kiện kinh tế, phù hợp với sản xuất nhỏ lẻ, dễ quản lý. Nhưng phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, khó kiểm soát về năng suất và chất lượng. Trong tương lai, phương thức này có thể sẽ ít dần và không tồn tại. + Sản xuất nông nghiệp trong môi trường có kiểm soát: Là dạng công nghệ trồng trọt, chăn nuôi tiên tiến, kết hợp giữa kỹ thuật, khoa học nuôi trồng và những công nghệ quản lý dựa trên máy tính nhằm tối ưu hóa các hệ thống canh tác, chất lượng cây trồng cũng như hiệu quả sản xuất [105]. Các mô hình sản xuất kinh tế nông nghiệp trong tương lai có thể sẽ góp phần thay đổi đời sống của nông dân, kinh tế sẽ được nâng lên, bộ mặt nông thôn sẽ đổi mới, giải quyết được mâu thuẫn mất cân đối giữa thành thị và nông thôn. Đây là vấn đề ảnh hưởng tới môi trường ở, cần phải xem xét trong các giải pháp cho tổ chức (hình 2.5). 2.3. MỘT SỐ YẾU TỐ NỘI TẠI ẢNH HƢỞNG ĐẾN MÔI TRƢỜNG Ở 2.3.1. Dân số và cấu trúc gia đình 2.3.1.1. Về dân số - Dân số và sức ép của dân số nổi lên như là một trong những vấn đề cấp thiết, nó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức môi trưởng ở nông thôn. Đối với nước ta nói chung - khu vực nông thôn, dân số vẫn chiếm phần lớn khoảng 70%. Tính đến năm 2012, theo [82] thì: Dân số toàn vùng ĐBSH là 20,2367 triệu người, tăng so với năm 2005 (18,9767 triệu người) khoảng 1,26 triệu người, tỉ lệ tăng dân số là 1,07%. Khu vực nông thôn toàn vùng đến 2012 là 13,989 triệu người, số dân thành thị là 6,2477 triệu. Như vậy dân số khu vực nông thôn vùng ĐBSH khoảng 69,1% so với toàn vùng. Tuổi thọ trung bình trong vùng là 74,3 năm. Tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ 65 trong vùng là 98,0%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên toàn vùng là 11,7783 triệu người bằng khoảng 57,3% dân số toàn vùng. Tỉ lệ lao động từ tuổi 15 trở lên đã qua đào tạo ở vùng ĐBSH là 24,0%. Tỉ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn là 1,25 %, thiếu việc làm là 3,09%. Theo các con số thống kê thì vùng ĐBSH rất có lợi thế về lực lượng lao động trẻ, nhưng tỉ lệ đã qua đạo tạo lại khá kiêm tốn - đó cũng là những khó khăn. - Di dân nông thôn vùng ĐBSH có chiều hướng là sự dịch chuyển ra các thành phố, hoặc đến những khu công nghiệp mới xây dựng. Theo [50] thì dân số ở vùng nông thôn vùng ĐBSH những năm đầu 1990 vào khoảng 81,2%, đến nay (2012) chỉ còn là 69,1%. Khối lượng di chuyển dân cư khỏi khu vực nông thôn trong vùng là khá lớn, thông qua các con đường chủ yếu sau: + Thứ nhất: Cư dân nông thôn, đặc biệt là thế hệ trẻ, đã liên tục được thu hút vào làm việc tại các khu chế xuất, công nghiệp. + Thứ hai: Một bộ phận không nhỏ đi học, trở thành công chức cán bộ và chuyển tới làm việc và sinh sống tại các khu đô thị. + Thứ ba: Một số những người thân theo con cháu ra thành phố sống cùng, một bộ phận làm việc thêm theo thời vụ, một số ít đi vào khu vực quốc phòng rồi trở thành quân nhân chuyên nghiệp, Nếu khu vực nông thôn mà không tạo được những chính sách kinh tế - xã hội, môi trường ở tốt, phù hợpđể người dân yên tâm sống, làm giàu tại nơi mình sinh ra và yêu nó, thì dẫn đến kết quả là trong ý thức của các thế hệ cư dân nông thôn có tư tưởng là thoát ly khỏi nông thôn, khi học xong họ cũng không muốn trở về quê hương để làm việc nữa. 2.3.1.2. Cấu trúc gia đình Hiện nay đã thay đổi khá nhiều so với trước đây, xem xét sự thay đổi này đều là những cơ sở quan trọng giúp cho việc đề xuất giải pháp chuyển đổi, tổ chức không gian nhà ở và tổ chức môi trường ở nông thôn vùng ĐBSH đúng với thực tiễn hơn. Do đó, việc nghiên cứu các đặc điểm về cấu trúc gia đình nông thôn để từ đó đề ra các giải pháp tổ chức không gian thỏa mãn tốt nhất các yêu cầu đa dạng, nhu cầu của các loại gia đình là cần thiết. Chúng ta cần quan tâm đến mỗi gia đình về số lượng thành viên, các thế hệ sinh sống trong gia đình, lứa tuổi, mối qua hệ huyết thống, nghề nghiệp sản xuất kinh tế gia đình. - Nhân khẩu gia đình nông thôn trước đây thường có quy mô lớn, thường từ ba đến bốn thế hệ sống trong ngôi nhà (bình quân từ 7-8 người). Hiện nay, cấu trúc hộ gia đình nông thôn đã có sự thay đổi, những gia đình có số nhân khẩu lớn ngày càng giảm, số gia 66 đình trung bình từ 4-6 người đang chiếm số đông và xu hướng số nhân khẩu trong gia đình nông thôn ngày càng nhỏ hơn nữa. Tương lai ở nông thôn cũng giống như mô hình gia đình thành thị, chủ yếu là loại gia đình có số nhân khẩu từ 3-4 người (gia đình hạt nhân hai thế hệ) (bảng 2.5). Bảng 2.5. Bảng cấu trúc gia đình điều tra (tháng 3/2014) tại 2 xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc Địa điểm Tổng số nhân khẩu Tổng số hộ Hộ 4 thế hệ (7-8 ngƣời) Hộ 3 thế hệ (4-6 ngƣời) Hộ 2 thế hệ (3-4 ngƣời) Hộ 1 thế hệ 1-2 ngƣời (con cái đã ở riêng hết) Xóm Giữa, xã Quất Lưu (xã giáp ranh đồi núi), huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc 793 198 2 48 138 10 Tỉ lệ (%) 100 1,01 24,24 69,69 5,05 Địa điểm Tổng số nhân khẩu Tổng số hộ Hộ 4 thế hệ (6-8 ngƣời) Hộ 3 thế hệ (4-6 ngƣời) Hộ 2 thế hệ (3-4 ngƣời) Hộ 1 thế hệ 1-2 ngƣời (con cái đã ở riêng hết) Xóm Phú Thọ, thôn Đại Định, xã Cao Đại (xã đồng bằng), huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc 628 145 8 57 74 6 Tỉ lệ (%) 100 5,51 39,31 51,03 4,14 Như vậy, căn cứ theo nhu cầu phát triển về quy mô gia đình các vùng nông thôn, việc đòi hỏi về quỹ đất đai dành cho nhu cầu xây dựng càng lớn, trong khi diện tích đất ở nông thôn ngày càng bị thu hẹp. Do đó, cần tìm ra những giải pháp tổ chức không gian nhà ở cho phù hợp với quy mô nhân khẩu mỗi loại gia đình cũng như tính toán lại diện tích đất ở, loại hình nhà ở sao cho thích ứng với điều kiện cụ thể của mỗi địa phương. Khi là gia đình hạt nhân, ngôi nhà chỉ cần đáp ứng không gian ở và sinh hoạt cho gia đình nhỏ từ 3-4 người (hai vợ chồng và một đến hai con nhỏ); khi phát triển thành gia đình lớn (con cái lớn) thì cần không gian rộng hơn, nhu cầu sử dụng cao hơn nhằm phục vụ cho 67 nhiều đối tượng như không gian ngủ riêng, không gian học tập và làm nghề phụ; khi cấu trúc gia đình phát triển (con cái trưởng thành và lập gia đình riêng) thì cấu trúc gia đình lại có sự phân tách và quỹ đất đai có chiều hướng bị thu hẹp. Do vậy, để tổ chức môi trường ở nông thôn phù hợp, kinh tế và hiệu quả nhất thiết phải quan tâm đến cơ sở cấu trúc gia đình cũng như đặc điểm quá trình phát triển của gia đình nông thôn. 2.3.2. Mức thu nhập của ngƣời dân nông thôn - Mặc dù người dân nông thôn thu nhập đại đa số thấp hơn dân cư đô thị, nhưng mức sống bình quân hiện nay của họ đã cao hơn trước. Họ thu nhập kinh tế gia đình từ nhiều nghề như: làm trang trại gia đình; chăn nuôi kết hợp với làm ruộng; làm buôn bán dịch vụ nông nghiệp kết hợp với làm ruộng; làm nghề phụ kết hợp với làm ruộng; làm nghề thủ công; làm công nhân các khu công nghiệp hay họ mở các công ty kinh doanh buôn bán nông thổ sản. Ngoài ra, nhiều nông dân giàu lên nhờ vào việc bán bớt đi một phần đất trong diện tích đất ở của gia đình hoặc có nhiều tiền do được đền bù đất nông nghiệp để mở đường giao thông, xây khu đô thị hoặc khu công nghiệp. Trong số các nghề nêu trên, người nông dân sống chuyên canh nông nghiệp, không làm thêm các nghề phụ là những người có thu nhập thấp nhất, họ là người nghèo nông thôn. Tuy nhiên, một số người dân sau khi tiêu hết nhanh chóng số tiền được đền bù đất đai một cách không có kế hoạch, cũng trở thành người trắng tay và nghèo khó vì họ không còn đất để canh tác nữa. Tại các vùng nông thôn ven đô thị, sau khi đã đền bù giải phóng đất đai canh tác hiện nay còn được Nhà nước trả cho thêm một phần đất dịch vụ (10% diện tích đất canh tác) nhằm mục đích phát triển kinh tế gia đình thông qua việc làm dịch vụ buôn bán. Nhưng thực tế phần lớn những người nghèo cũng đã bán đi phần đất này và họ cũng không còn lối thoát về làm kinh tế gia đình nữa (những người giàu từ đô thị đã mua lại rất nhiều số đất dịch vụ này theo điều tra thực tế ở khu vực Hà Nội). - Nhìn chung, một bộ phận không nhiều dân cư nông thôn đã tự vươn lên làm giàu từ chính mảnh đất của họ, còn lại vẫn đa phần có thu nhập khiêm tốn vì không biết không biết vận dụng kiến thức về phát triển nông nghiệp. Nhà nước đã có nhiều chính sách giúp cho người nông dân thoát nghèo bằng cách cho vay vốn ưu đãi thông qua các hội phụ nữ, hội nông dân tập thể, tín dụng tại các địa phương... nhằm giúp cho nông dân có vốn để phát triển kinh tế nông ngh
File đính kèm:
- luan_an_to_chuc_moi_truong_o_nong_thon_vung_dong_bang_song_h.pdf