Luận án Tuyển chọn vi khuẩn lactic kháng với vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (Vibrio parahaemolyticus) trên tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei)

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Tuyển chọn vi khuẩn lactic kháng với vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (Vibrio parahaemolyticus) trên tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Tuyển chọn vi khuẩn lactic kháng với vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (Vibrio parahaemolyticus) trên tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei)

năng tạo bacteriocin và tính kháng khuẩn của LAB với V. parahaemolyticus Năm chủng LAB thí nghiệm T3.1, RP5.4.1, T4.2, RP5.5.1, RP6.5 được chọn để xác định khả năng kháng V. parahaemolyticus bằng bacteriocin. Kết quả được thể hiện qua hình 4.10. Qua kết quả xác định khả năng kháng V. parahaemolyticus bằng bacteriocin của LAB đã cho thấy rằng 05 chủng LAB này không sinh ra vòng Hình 4.9: Khả năng kháng khuẩn của vi khuẩn lactic RP6.5 (A) và T3.1 (B) với V. parahaemolyticus; RP6.5 và T3.1: LAB phân lập từ ruột cá rô phi và ruột tôm A B 58 kháng khuẩn. Điều này có thể là do các chủng LAB thí nghiệm không sinh ra bacteriocin hoặc các bacteriocin sinh ra không có khả năng ức chế vi khuẩn V. parahaemolyticus. Theo kết quả nghiên cứu của Bonadè et al. (2001) đã chứng minh rằng Lactobacillus helveticus G51 sinh ra bacteriocin có tên là helveticin 51 và bacteriocin này có khả ức chế nhiều dòng Lactobacillus helveticus khác nhưng lại không ức chế được dòng Aeromonas hydrophila IMPC 2. Bên cạnh đó, Trịnh Hùng Cường (2011) cũng đã khẳng định Lactobacillus ST322 vẫn sinh ra bacteriocin tuy nhiên bacteriocin sinh ra không ức chế được Vibrio sp. Kết quả nghiên cứu của Van Reegen (1998) đã chứng minh L. plantarum có khả năng tạo ra bacteriocin (plantaricin 423). Tuy nhiên, cơ chế hoạt động của plantaricin 423 yếu, chúng được xác định có khả năng kháng Oenococcus oeni. Kết quả nghiên cứu của Martinis et al. (2001) cho rằng các bacteriocin thường có hiệu quả chống lại các vi khuẩn Gram (+) như Bacillus spp, Listeria monocytogenes, Salmonella typhimurium. Các bacteriocin của vi khuẩn lactic có thể không hiệu quả khi ức chế vi khuẩn Gram (-) vì màng ngoài của chúng gây trở ngại cho hoạt động của bacteriocin. Một nghiên cứu khác của Holzapfel et al. (1995) cũng chỉ ra rằng phần lớn bacteriocin chỉ có thể kháng lại các vi khuẩn Gram dương như kháng một số loài có liên quan mật thiết (các chủng Lactobacillus khác) hoặc kháng các vi khuẩn sinh bào tử Gram dương như Bacillus và Clostridium. Tóm lại, năm chủng LABT3.1, RP5.4.1, T4.2, RP5.5.1 và RP6.5 không sinh vòng kháng khuẩn với V. parahaemolyticus khi kiểm tra bằng bacteriocin. LAB có khả năng kháng với vi khuẩn V. parahaemolyticus là do chúng tiết ra acid bởi vì vi khuẩn V. parahaemolyticus sẽ bị giảm độc lực đối với vật chủ khi pH môi trường <4. Trong khi đó, dịch nuôi của các chủng LAB thí nghiệm dao động trong khoảng pH từ 3,8-4,1. Vì thế, đây có thể là nguyên nhân ức chế sự phát triển của V. parahaemolyticus. Tóm lại, không thể ứng dụng bacteriocin từ 5 chủng vi khuẩn lactic này trong việc phòng trị bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. Hình 4.10: Kết quả xác định khả năng tạo bacteriocin và tính kháng khuẩn của LAB1 (Hình B) và LAB2 (Hình A) với V. parahaemolyticus A B S T 1 2 ( A ) v à 59 4.2.2. Kết quả thí nghiệm khảo sát sự ảnh hưởng của mật số nuôi vi khuẩn lactic và thời gian ủ khác nhau lên khả năng kháng V. parahaemolyticus Tất cả các chủng LAB thí nghiệm không có khả năng kháng vi khuẩn V. parahaemolyticus ở mật số 103, 105 và 107 CFU/mL ở các thời gian nuôi 24, 48, 72, 96 giờ. Kết quả thí nghiệm này cũng được Trịnh Hùng Cường (2011) nghiên cứu và đã xác định ở mật số từ 105, 107 CFU/mL với thời gian nuôi 48, 72, và 96 giờ, một số chủng LAB có khả năng kháng với vi khuẩn Vibrio. Tuy nhiên trong thí nghiệm này, các chủng LAB không có khả năng kháng V. parahaemolyticus với mật số 107 CFU/mL hoặc thấp hơn ở các thời gian nuôi từ 24-96 giờ. 4.2.3. Thử nghiệm các nồng độ muối khác nhau ảnh hưởng lên mật số của vi khuẩn lactic Năm chủng LAB thí nghiệm đều phát triển tốt ở độ mặn từ 0-25‰ trong thời gian nuôi từ 48-96 giờ. Tuy nhiên, chúng đạt mật số cao nhất ở thời gian nuôi là 48 giờ, độ mặn 5‰ và thấp nhất là ở độ mặn 25‰ và thời gian nuôi là 96 giờ. Mỗi chủng LAB khác nhau phát triển tối ưu ở các nồng độ muối và thời gian nuôi khác nhau (Bảng 4.2). Nhìn chung, các chủng LAB đều phát triển ở độ mặn từ 0-25‰ nhưng phát triển tốt nhất ở độ mặn 5‰, và phát triển chậm nhất ở độ mặn 25‰. Kết quả thí nghiệm này cũng tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Huy (2014) vi khuẩn Lactobacillus có khả năng sinh trưởng và phát triển ở nồng độ muối từ 0-3%, nhưng phát triển tốt nhất ở nồng độ muối là 1%. Mật độ vi khuẩn bắt đầu giảm ở nồng độ muối 2%, và giảm nhiều ở nồng độ 3%. Một nghiên cứu khác cũng đã chứng minh độ mặn có ảnh hưởng lên quần thể vi khuẩn lactic trong hệ thống tiêu hóa của cá (Sakata et al., 1980; Ringø et al., 1995). Quần thể Lactobacilli giảm, số lượng Leuconostoc spp. và Streptococcus spp. vẫn ổn định khi cá hồi chấm được ương trong nước biển. Tóm lại, vi khuẩn lactic vẫn phát triển tốt cả điều kiện nước ngọt và nước lợ. 60 Bảng 4.2: Biến động của mật số LAB ở các nồng độ muối khác nhau theo thời gian nuôi cấy NT CFU/mL LAB1 T3.1 Giờ Nồng độ muối (‰) 0 5 10 15 20 25 48 1,76x109± 1,5x106Cd 2,02x109± 2,1x106Aa 1,85x109± 1,5x106Ca 1,82x109± 3,1x106Cb 1,77x109± 4,7x106Ac 1,70x109± 3,1x106Bc 72 1,46x109± 4,5x106Db 1,51x109± 1,3x106Da 1,47x109± 3,2x106Fb 1,47x109± 4,9x106Eb 1,43x109± 5,3x106Ec 1,39x109± 2,0x106CDd 96 1,46x109± 1,5x106Db 1,5x109± 7,4x106Da 1,47x109± 5,5x106Fb 1,47x109± 1,5x106Eb 1,43x109± 2x106Ec 1,39x109± 4,7x106CDc LAB2 RP5.4.1 48 1,69x109± 4,1x106Ba 1,96x109± 2,6x106Ba 1,88x109± 2,5x106Ba 1,9x109± 1,5x106Ba 1,69x109± 5,9x106Aa 1,69x109± 6,1x106Ba 72 1,5x109± 2x106Db 1,51x109± 2x106Da 1,46x109± 3,5x106Fc 1,46x109± 1,5x106Ec 1,42x109± 5,9x106Ed 1,41x109± 1,5x106Ce 96 1,5x109± 2x106Db 1,52x109± 3,5x106Da 1,47x109± 1,5x106Fc 1,46x109± 2,5x106Ec 1,4x109± 1,4x106Fd 1,4x109± 7,5x106Cd LAB3 T4.2 48 1,92x109± 4,2x106Ab 1,96x109± 3,1x106Ba 1,81x109± 3,1x106Dc 1,81x109± 6,1x106Cc 1,7x109± 2,4x106Ad 1,7x109± 5,8x106Be 72 1,49x109± 5,5x106Db 1,52x109± 4,4x106Da 1,49x109± 5x106Eb 1,49x109± 4,9x106Eb 1,46x109± 5,8x106Dc 1,4x109± 7,5x106Cd 96 1,92x109± 4,2x106Ac 1,96x109± 3,1x106Ba 1,81x109± 3,1x106Dc 1,81x109± 6,1x106Cc 1,69x109± 2,4x106Ad 1,67x109± 5,8x106Be LAB4RP 5.5.1 48 1,92x109± 3,5x106Ab 1,85x109± 7,2x106Ca 1,85x109± 4,9x106Cc 1,65x109± 1,2x106Dc 1,62x109± 2,2x106Bd 1,82x109± 1,4x106Ae 72 1,49x109± 5,1x106Db 1,54x109± 2x106Da 1,46x109± 4,7x106Fc 1,46x109± 3,2x106Ec 1,39x109± 4,2x106Fd 1,39x109± 8,5x106CDd 96 1,49x109± 7,5x106Db 1,54x109± 6,1x106Da 1,5x109± 6,5x106Eb 1,5x109± 7,8x106Eb 1,35x109± 3,5x106Gc 1,35x109± 8,1x106Dc LAB5 RP6.5 48 1,94x109± 2,5x106Ad 2,04x109± 1x106Aa 1,98x109± 5,3x106Ab 1,97x109± 1,5x106Ac 1,88x109± 5,2x106Ae 1,78x109± 5,1x106Af 72 1,51x109± 6,8x106Da 1,51x109± 3,8x106Da 1,46x109± 3,5x106Fb 1,5x109± 2,6x106Eb 1,5x109± 4,4x106Cb 1,42x109± 1,6x106Cc 96 1,51x109± 2x106Da 1,52x109± 1,1x106Da 1,49x109± 3,5x106Eb 1,46x109± 3x106Ec 1,45x109± 5,3x106Dc 1,43x109± 1,5x106Cd Ghi chú: a, b, c, d, e, f : các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. A, B, C, D, E, F, G: các số liệu trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê Đối với nghiệm thức LAB1 với thời gian nuôi là 48 giờ, vi khuẩn phát triển tốt nhất ở độ mặn 5‰ và 10‰ thể hiện lần lượt là (2,02x109±2,1x106 CFU/mL; 1,85x109±1,5x106 CFU/mL) và thấp nhất ở nghiệm thức có nồng độ muối 25‰ (1,7x109±3,1x106 CFU/mL). Tương tự, đối với thời gian nuôi 72 và 96 giờ chủng vi khuẩn này cũng phát triển tốt nhất ở nghiệm thức 5‰ (1,5x109±7,4x106 CFU/mL) và thấp nhất ở 25‰ (1,39x109±4,7x106 CFU/mL). Nghiệm thức LAB2, vi khuẩn phát triển rất tốt và khác biệt không có ý nghĩa thống kê lẫn nhau giữa các nghiệm thức khi nuôi ở độ mặn 0-25‰ trong 48 giờ. Tuy nhiên, ở thời gian nuôi 72 và 96 giờ, chủng LAB này phát triển tốt 61 nhất ở độ mặn 5‰, và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại. Tương tự các chủng LAB còn lại cũng phát triển tốt nhất ở độ mặn 5‰ và thấp nhất ở độ mặn 25‰. 4.3. Thử nghiệm khả năng kháng bệnh hoại tử gan tụy cấp của các chủng LAB bằng phương pháp cho ăn 4.3.1. Biến động các yếu tố môi trường trong các lô thí nghiệm Trong thời gian thực hiện thí nghiệm, các yếu tố môi trường được theo dõi thường xuyên và kết quả được mô tả cụ thể qua Bảng 4.3: Bảng 4.3. Biến động các yếu tố thủy lý hóa trong các lô thí nghiệm Tổng các NT Các yếu tố thủy lý hóa pH Nhiệt độ Độ kiềm NO2- NH3 7,94 ±0,029 27,98 ±0,21 114,9 ±5,02 1,91±0,78 0,094±0,029 a) pH pH của nước trong các lô thí nghiệm dao động trong khoảng 7,5-8,0, pH trung bình là 7,94. Giá trị pH thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp cho nuôi tôm thẻ. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với Chanratchakool et al. (1995) giá trị pH ở mức thích hợp cho sự sinh trưởng tối ưu của tôm từ 7,5- 8,35. Nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nho và ctv. (2002) cho thấy giá trị pH từ 7,5-8,5 là thích hợp cho nuôi tôm. Chanratchakool (2003) đề nghị nên khống chế pH dưới 8,3 nhằm đảm bảo sự cân bằng ion của độ kiềm. Nguồn nước có độ pH từ 7,5-8,5 là điều kiện tối ưu để vi khuẩn nitrate hóa tăng trưởng. Vậy giá trị pH của thí nghiệm này là rất phù hợp cho sự phát triển của tôm thẻ. b) Nhiệt độ Thí nghiệm được thực hiện trong nhà kín nên nhiệt độ tương đối ổn định trong suốt quá trình bố trí. Nhiệt độ trung bình trong suốt quá trình thí nghiệm nằm trong khoảng 28 C. Tôm thẻ chân trắng cũng là đối tượng rộng nhiệt nhưng phát triển tốt nhất giữa 23-30C (FAO, 2004). Vậy ở nhiệt độ 280C là phù hợp cho quá trình phát triển của tôm thẻ. c) Độ kiềm Trong quá trình thí nghiệm độ kiềm dao động trong khoảng 110-120 mg CaCO3/L. Độ kiềm trung bình là 114,9 mg CaCO3/L. Kết quả thí nghiệm này cho thấy rằng độ kiềm rất phù hợp cho sự phát triển của tôm thẻ. Độ kiềm để tôm sinh trưởng và phát triển tốt là từ 80- 120 mg CaCO3/L (Boyd và Green, 2002). 62 d) Nồng độ NO2- Hàm lượng NO2- trong suốt quá trình thí nghiệm đạt nồng độ cao nhất là 4 mg/L vào ngày bố trí thứ 3, tuy nhiên sau đó nồng độ NO2- có xu hướng giảm dần do quá trình thay nước và shiphone bể. Nồng độ NO2- trung bình là 1,91 mg/L. Nồng độ này vẫn nằm trong khoảng thích hợp trong nuôi tôm thẻ. Kết quả này cũng phù hợp với Whetstone et al. (2002). Trong ao nuôi tôm thẻ NO2 phải nhỏ hơn 4,3 mg/L được xem là an toàn. e) Nồng độ NH3 Nồng độ NH3 dao động từ 0-0,13 mg/L trong quá trình bố trí thí nghiệm. Nồng độ NH3 trung bình 0,094 mg/L. Ở nồng độ này có thể được xem là phù hợp trong nuôi tôm thẻ. Kết quả này được xác định bởi Whetstone et al. (2002) trong ao nuôi thì hàm lượng NH3 nhỏ hơn 0,1 mg/L được xem là thích hợp và theo Chen và Chin (1998) thì nồng độ NH3 được xem là an toàn cho tôm nuôi là 0,13 mg/L. Vậy nồng độ NH3 trong thí nghiệm vẫn nằm trong giới hạn cho phép khi nuôi tôm thẻ. Nhìn chung, các yếu tố môi trường được quản lý tốt và không gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển bình thường cũng như quá trình cảm nhiễm bệnh trên tôm trong suốt thời gian thí nghiệm. 4.3.2. Kết quả kiểm tra chất lượng tôm và mật số LAB thí nghiệm - Kết quả kiểm tra về cảm quan: tất cả các mẫu tôm thí nghiệm đều có kích cỡ đồng đều khoảng 1g/con. Tôm có ngoại hình sáng đẹp, phụ bộ đầy đủ, ruột đầy thức ăn. Ngoài ra tôm sử dụng cho thí nghiệm rất khoẻ mạnh, bắt mồi tốt và phản ứng nhanh với tiếng động. - Kết quả kiểm tra bằng phương pháp PCR: kết quả đã cho thấy mẫu tôm trong lô thí nghiệm đều âm tính với AHPND và WSSV. Kết quả kiểm tra mật số LAB sau khi trộn vào thức ăn có sự do động 2- 4x109 CFU/g. Mật số LAB này hoàn toàn đủ điều kiện để thí nghiệm. 4.3.3. Ảnh hưởng của việc bổ sung LAB vào thức ăn lên tỷ lệ sống và khả năng kháng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) a) Mật số vi khuẩn Vibrio trong nước thí nghiệm Sau 24 giờ cảm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus, tiến hành xác định mật số vi khuẩn Vibrio tổng trong nước. Kết quả phân tích mật số vi khuẩn Vibrio trong nước được thể hiện qua Bảng 4.4. 63 Bảng 4.4. Biến động của mật số vi khuẩn Vibrio trong nước thí nghiệm NT Đơn vị mật số vi khuẩn 103 CFU/mL Ngày 1 Ngày 2 Ngày 3 Ngày 4 Ngày 5 Ngày 6 Ngày 7 Ngày 8 Ngày 9 Ngày 10 Ngày 11 Ngày 12 ĐCA 4,7± 3,8ab 6,8± 3,0a 3,3± 1,8bc 4,0± 1,7b 0,6± 0,3c 0,5± 0,35c 0,49± 0,31c 0,52± 0,24c 0,6± 0,3c 0,5± 0,35c 0,5± 0,31c 0,5± 0,24c ĐCD 930± 52a 840± 111a 65± 14b 23± 6,1b 21± 15b 12± 3,6b 6,6± 2,3b 5± 1,8b 3,9± 2,2b 4,4± 3,3b 3,7± 3,7b 3,2± 1,4b LAB1 30± 23a 12± 4,2b 3,9± 2,9b 4,7± 3,8b 3,4± 2,1b 3,3± 1,8b 4± 1,7b 0,6± 0,3b 0,5± 0,4b 0,48± 0,3b 0,5± 0,2b 0,3± 0,2b LAB2 36± 1,2a 10± 14b 4,5± 4,4bc 3,9± 2,3bc 1,8± 0,7c 4,5± 2,6bc 2,3± 1,2bc 1,8± 0,8c 4,9± 1,9bc 2,5± 0,7bc 1,2± 0,4c 0,7± 0,05c LAB3 41± 2,3a 12± 4,2b 0,8± 0,2c 0,5± 0,4bc 0,7± 0,3bc 3,3± 1,8cd 4± 2bcd 0,6± 0,3d 0,5± 0,4d 0,3± 0,2d 0,3± 0,1d 0,2± 0,2d LAB4 21± 0,6ab 14± 4abc 22± 16ab 25± 27a 14± 4abc 46± 42cd 13± 7abc 11± 12abc 68± 3abc 3,3± 1,8cd 0,4± 1,7cd 0,5± 0,4d LAB5 32± 2a 4,8± 0,9c 2,4± 1,5c 16± 9,3b 5,2± 2,9c 0,3± 0,1c 0,5± 0,2c 0,3± 0,1c 0,2± 0c 0,5± 0,4c 0,3± 0,2c 0,3± 0,1c VP LAB1 307± 289a 233± 213a 58± 16b 33± 15b 46± 42b 9± 5,7b 2,7± 0,9b 1,1± 0,6b 0,5± 0,4b 0,5± 0,3b 0,5± 0,2b 0,3± 0,2b VP LAB2 640± 240a 847± 397a 58± 16b 43± 9,9b 14± 10b 7,9± 7,4b 41± 2,4b 5,4± 3,9b 3,9± 2,6b 4,5± 3,2b 2± 1,4b 1,3± 0,3b VB LAB3 427± 61a 403± 162a 22± 20b 19± 18b 5,4± 4,5b 2,4± 2,1b 0,5± 0,2b 0,4± 0b Chết 100% Chết 100% Chết 100% Chết 100% VP LAB4 493± 284a 597± 219a 49± 32b 16± 18b 2,8± 1b 0,8± 0,2b 0,7± 0,2b 0,4± 0b 0,4± 0,05b 0,5± 0,3b 0,3± 0,1b 0,3± 0,1b VP LAB5 917± 72a 483± 327b 83± 59c 53± 36c 38± 43c 29± 13c 49± 38c 43± 30c 33± 1,8c 9,1± 5,5c 4,5± 3,4c 3,3± 1,2c Ghi chú: a, b, c, d: các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả phân tích mật số vi khuẩn Vibrio tổng trong nước đã cho thấy có sự giảm đáng kể về mật số vi khuẩn Vibrio tổng và khác biệt có ý nghĩa thống kê qua từng đợt thu mẫu. Mật số vi khuẩn Vibrio tổng đạt cao nhất ở nghiệm thức đối chứng dương sau 24 giờ cảm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus (9,3x105 CFU/mL) và thấp nhất là ở nghiệm thức đối chứng âm (4,7x103 CFU/mL). Nhìn chung, các nghiệm thức không cảm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus, mật số vi khuẩn Vibrio tổng trong nước rất thấp và khác biệt rất có ý nghĩa so với những nghiệm thức có cảm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus. Thể hiện cụ thể như sau: Đối với nghiệm thức không cảm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus, mật số vi khuẩn Vibrio tổng cao nhất là ở nghiệm thức LAB3 (4,1x104 CFU/mL) và thấp nhất là ở nghiệm thức đối chứng âm (4,7x103 CFU/mL) sau 24 giờ bố trí thí nghiệm. Đến những ngày gần cuối thí nghiệm thì mật số vi khuẩn Vibrio tổng càng thấp và thấp nhất ở nghiệm thức LAB3 (2x102 CFU/mL). Đối với các nghiệm thức có cảm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus, mật số Vibrio tổng sau 24 giờ cảm nhiễm từ 2,8-9,3x105 CFU/mL. Mật số vi khuẩn trong các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa ngày thu mẫu thứ nhất và thứ 2, chỉ riêng ở nghiệm thức 64 VP+LAB5, mật số Vibrio tổng giảm thấp và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với ngày đầu bố trí. Bắt đầu từ ngày thu mẫu thứ 3 lượng nước và cặn bả ở đáy bể đã được shiphon. Sự giảm thấp mật số vi khuẩn Vibrio trong nước là do sự thay nước và shiphon đáy bể thí nghiệm. Hơn thế nữa, vi khuẩn lactic được trộn vào thức ăn có thể tồn tại và phát triển trong môi trường nước vì thế chúng có thể cạnh tranh và làm giảm sự phát triển của vi khuẩn Vibrio thể hiện ở chủng LAB5. Kết quả thí nghiệm này đã được kiểm chứng bởi Talpur et al. (2012) đã bổ sung vi khuẩn lactic (L. plantarum, L. salivarius và L. rhamnosus) vào nước ương ấu trùng ghẹ P. pelagicus nhằm ức chế mầm bệnh trên ấu trùng ghẹ. Kết quả cho thấy có sự cải thiện đáng kể về chất lượng ấu trùng. Việc sử dụng vi khuẩn lactic có khả năng kháng lại vi khuẩn Vibrio anguillarum, dòng vi khuẩn có lợi này đã làm tăng tỷ lệ sống ấu trùng cua (Portunus trituberculatus) và cũng làm giảm số lượng Vibrio sp. trong nước ương ấu trùng (Nogami và Maeda, 1992; Nogami et al.,1997). b) Mật số vi khuẩn Vibrio tổng trong ruột tôm thẻ thí nghiệm Kết quả thí nghiệm đã chứng minh, mật số vi khuẩn Vibrio tổng trong ruột tôm luôn tồn tại trong điều kiện có và không có cảm nhiễm V. parahaemolyticus. Kết quả phân tích mật độ vi khuẩn Vibrio trong ruột tôm thẻ chân trắng được thể hiện cụ thể qua Bảng 4.5. Đối với các nghiệm thức không cảm nhiễm V. parahaemolyticus thì mật số Vibrio tổng ở nghiệm thức ĐCA, LAB3, và LAB5 trong ruột tôm dao động trung bình 3,5x106 CFU/g, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các đợt thu mẫu trong cùng một nghiệm thức. Tuy nhiên, ở nghiệm thức LAB1, LAB2 và LAB4, mật số vi khuẩn Vibrio tổng trong ruột tôm có xu hướng giảm và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với đợt thu mẫu đầu tiên trong cùng một nghiệm thức. Vậy, ba chủng LAB1, LAB2, và LAB4 có khả năng làm giảm mật độ vi khuẩn Vibrio tổng trong điều kiện không cảm nhiễm V. parahaemolyticus. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Trịnh Hùng Cường (2011), vi khuẩn Lactobacillus có khả năng ức chế vi khuẩn Vibrio trong điều kiện in vitro. Các dòng Lactobacillus hay Carnobacterium được phân lập từ luân trùng có tác dụng kháng lại vi khuẩn Vibrio sp. gây bệnh trên ấu trùng cá Bơn (Gatesoupe, 1994). Dhanasekaran et al. (2010) Lactobacillus RLD2 có hoạt động kháng lại Aeromonas và Vibrio sp. 65 Bảng 4.5. Mật số vi khuẩn Vibrio tổng trong ruột tôm thẻ (105 CFU/g) NT Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 5 ĐCA 31 ±26,3aB 40,7±43,7aB 4,5±2,4aB 17,3±12,9aB 33,8±29,9aABCD ĐCD 16,9± 10,5aB 33,3±39,7aB 52,7±41,5aA 35±14,8aA 56,3±34,6aA LAB1 18,9±7,3aB 6,1± 3,2bB 3,4±4,5bB 2,2±1,99bB 0,08±0,1bD LAB2 25,5± 17aB 10,7± 8,3abB 4,2±3,4bB 0,4±0,4bB 0,26±0,3bD LAB3 11,5± 16,8aAB 32,6± 50aA 1,9±1,04aB 3,6± 3,2aB 1,9± 2,4aD LAB4 109± 70,1aAB 14±13bB 15,6±12,9bAB 9,2±5,9bB 49±37bAB LAB5 14± 20aB 4,2±4aB 2,9±0,6aB 2,8±1,6aB 4,3±3,6aCD VP+LAB1 47± 12,3aB 26,9± 29,7aB 21,5±18,2aAB 10,6±6,4aB 14,5±18,6aCD VP+LAB2 40,7± 37,7aB 13,5± 4,8abB 15,8±7,9abAB 7,5± 8,2abB 2,57±0,74bD VP+LAB3 222,7± 179,7aA 185±213aB 58±48,7aA Chết 100% Chết 100% VP+LAB4 130,7± 51,4aAB 21± 29bB 17,5±21bAB 18,2±10,2bB 45,4±37,7bABC VP+LAB5 140,7± 142,5aAB 30±46,7aB 23,8±31aAB 17,1±21,9aB 4,4±3,8aCD Ghi chú: a, b, c, d, e, f, g : các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thể hiện sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. A, B, C, D, E, F, G: các số liệu trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê Đối với các nghiệm thức có cảm nhiễm V. parahaemolyticus, mật số vi khuẩn Vibrio tổng trong ruột tôm thẻ của hầu hết các nghiệm thức không khác biệt có ý nghĩa thống kê với nhau qua các đợt thu mẫu, mật số đạt cao nhất là 222x105 CFU/g ở nghiệm thức VP+LAB3 ở đợt thu mẫu thứ nhất và thấp nhất là 2,57x105C
File đính kèm:
luan_an_tuyen_chon_vi_khuan_lactic_khang_voi_vi_khuan_gay_be.pdf
Thongtinluanan-en.docx
Thongtinluanan-vi.docx
Tomtatluanan_en_NTTLinh.pdf
Tomtatluanan_vn_NTTLinh.pdf