Luận án Xác định mô hình thống kê di truyền phù hợp, ước tính giá trị giống và đánh giá khuynh hướng di truyền một số tính trạng sinh sản của lợn Landrace, Yorkshire

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Xác định mô hình thống kê di truyền phù hợp, ước tính giá trị giống và đánh giá khuynh hướng di truyền một số tính trạng sinh sản của lợn Landrace, Yorkshire", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Xác định mô hình thống kê di truyền phù hợp, ước tính giá trị giống và đánh giá khuynh hướng di truyền một số tính trạng sinh sản của lợn Landrace, Yorkshire

ến Các yếu tố ảnh hưởng ngẫu nhiên Kiểu chuồng (kín, hở) Tuổi đẻ nái (lứa đẻ) Tuổi cai sữa của ổ đẻ Ảnh hưởng cơ sở x năm sinh x tháng đẻ (HYS) Ảnh hưởng di truyền cộng gộp của cá thể (a) Ảnh hưởng thường trực của lứa đẻ (L) Ảnh hưởng ngoại cảnh chung của mẹ (C) Ảnh hưởng di truyền từ mẹ (M) Mô hình 1 + + + + + + - - Mô hình 2 + + + + + - + - Mô hình 3 + + + + + + + - Mô hình 4 + + + + + + - + Mô hình 5 + + + + + + + + Ghi chú: Ảnh hưởng của tuổi cai sữa chỉ áp dụng với tính trạng số con cai sữa/ổ và khối lượng toàn ổ cai sữa. ổng hợp các kết quả nghiên cứu trước đây trên thế giới cũng như ở iệt am, các yếu tố ngẫu nhiên như ảnh hưởng thường trực của lứa đẻ, ảnh hưởng ngoại cảnh chung của con mẹ, ảnh hưởng di truyền từ mẹ và ảnh hưởng di truyền cộng gộp của cá thể sẽ được đưa vào mô hình ước tính phương sai thành phần và hệ số di truyền. 57 hương sai thành phần và hệ số di truyền đối với các tính trạng SCSSS, SCCS và KLCS được ước tính bằng phương pháp REML (Restricted Maximum Likelihood) trên phần mềm thống kê di truyền VCE6 (Groeneveld và cs, 2010) sử dụng các mô hình vật nuôi hỗn hợp khác nhau với các ảnh hưởng ngoại cảnh ngẫu nhiên khác nhau trên cùng cơ sở dữ liệu, như được tổng hợp trong bảng 2.3 ở trên. Sử dụng các mô hình vật nuôi hỗn hợp khác nhau với các ảnh hưởng ngoại cảnh ngẫu nhiên khác nhau trên cùng cơ sở dữ liệu được trình bày như sau: Mô hình 1 (MH1): Yijklmn = + αi + j + γk + HYSl + am + L + eijklmn Mô hình 2 (MH2): Yijklmn = + αi + j + γk + HYSl + am + C + eijklmn Mô hình 3 (MH3): Yijklmn = + αi + j + γk + HYSl + am + L + C + eijklnm Mô hình 4 (MH4): Yijklmn = + αi + j + γk + HYSl + am + L + M + eijklmn Mô hình 5 (MH5): Yijklmn = + αi + j + γk + HYSl + am + L + C + M + eijklmn T ong đó, yijklmn: Giá trị kiểu hình của tính trạng : Giá trị trung bình kiểu hình của quần thể αi: Ảnh hưởng của kiểu chuồng nuôi (chuồng kín, hở) j: Ảnh hưởng của tuổi nái tại mỗi lứa đẻ (lứa đẻ) γk: Ảnh hưởng của tuổi cai sữa (của ổ đẻ) (đối với tính trạng SCCS, KLCS) HYSl: Ảnh hưởng của năm x tháng (theo lứa đẻ) t ong cơ sở giống am : Ảnh hưởng di truyền cộng gộp trực tiếp của cá thể L: Ảnh hưởng ngoại cảnh thường trực của lứa đẻ C: Ảnh hưởng ngoại cảnh chung của con mẹ M: Ảnh hưởng di truyền từ mẹ eijklmn:Sai số ngẫu nhiên Tiêu chí chọn mô hình thống kê di truyền phù hợp nhất chung cho hai giống Landrace và Yorkshire nuôi cả cơ sở A và cơ sở B là mô hình 58 đồng thời có 1) Mô hình có giá trị SE của các hệ số nhỏ hơn giá trị trung bình khi ước tính các thành phần phương sai và hệ số tương ứng của các thành phần phương sai đó; 2) Tổng giá trị các hệ số của các ảnh hưởng L, C và M là lớn nhất so với giá trị hệ số di truyền cho các tính trạng SCSSS, SCCS và KLCS ở cả giống Landrace và Yorkshire nuôi tại cơ sở A và cơ sở B. 2.4.3. Ước tính giá trị giống của tính trạng số con sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa/ổ, khối lượng toàn ổ cai sữa và chỉ số chọn lọc SPI Sau khi có tìm được mô hình thống kê di truyền phù hợp trong phân ước tính phương sai thành phần và hệ số di truyền, mô hình đó sẽ được sử dụng để ước tính giá trị giống. Giá trị giống của các tính trạng S SSS, S S và KL S được ước tính bằng phương pháp LU ( est Linear Unbiased rediction) bằng phần mềm thống kê di truyền PEST (Groeneveld, 2006) sử dụng mô hình vật nuôi hỗn hợp bao gồm ảnh hưởng ngoại cảnh thường trực của lứa đẻ, ảnh hưởng ngoại cảnh chung của con mẹ và tuổi cai sữa của ổ đẻ (tính trạng SCCS và KLCS). Mô hình thống kê được trình bày như sau: Yijklmn = + αi + j + γk + HYSl + L + C + am + eijklmn T ong đó, yijklmn: Giá trị kiểu hình của tính trạng : Giá trị trung bình kiểu hình của quần thể αi: Ảnh hưởng của kiểu chuồng nuôi (chuồng kín, hở) j: Ảnh hưởng của tuổi nái tại mỗi lứa đẻ (lứa đẻ) γk: Ảnh hưởng của tuổi cai sữa (của ổ đẻ)(đối với tính trạng SCCS, KLCS) HYSl: Ảnh hưởng của năm x tháng (theo lứa đẻ) t ong cơ sở giống 59 L: Ảnh hưởng ngoại cảnh thường trực của lứa đẻ t ong đó con nái sinh ra C: Ảnh hưởng ngoại cảnh chung của con mẹ am : Ảnh hưởng di truyền cộng gộp của cá thể eijklmn: Ảnh hưởng của ngoại cảnh ngẫu nhiên ộ chính xác của các giá trị giống ước tính được tính toán bằng công thức của Mrode (1996) sau: rAÃ = )(PEV/σ1 A T ong đó, rAÂ: Độ chính xác của giá trị giống dự đoán σA: Phương sai di truyền cộng gộp PEV: Phương sai của sai số dự đoán (được ước tính cùng với giá trị giống của từng cá thể bằng phần mềm PEST) Chỉ số chọn lọc S cho đàn lợn đực và đàn lợn nái giống Landrace và Yorkshire được sử dụng như sau: SPI=100+ 25 /SD*(3,09*GTGSCSSS+1,72*GTGSCCS+0,27*GTGKLCS) T ong đó, SPI là chỉ số nái sinh sản; GTGSCSSS, GTGSCCS, GTGKLC là giá trị giống ước tính của các tính trạng SCSSS, SCCS, KLCS 2.4.4. Đánh giá khuynh hướng di truyền của tính trạng số con sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa/ổ, khối lượng toàn ổ cai sữa và chỉ số chọn lọc SPI Khuynh hướng di truyền của các tính trạng nghiên cứu bao gồm SCSSS, SCCS, KLCS và chỉ số chọn lọc nái sinh sản (SPI) được đánh giá dựa trên sự biến thiên của các giá trị giống trung bình và giá trị của chỉ số chọn lọc theo năm sinh của đàn giống Landrace và Yorkshire từ 2011 đến 2018. ay nói cách khác, đối với mỗi tính trạng, mỗi điểm trên đường biến thiên của biểu đồ chính là giá trị giống trung bình của nhóm cá thể được sinh ra trong cùng một năm. Do vậy, khuynh hướng (hay xu hướng) biến 60 thiên của các GTG trung bình của các tính trạng nghiên cứu (SCSSS, SCCS, KLCS) hay giá trị trung bình của chỉ số S đã được biểu diễn qua các biểu đồ đối với từng tính trạng, từng giống và từng trại. ồng thời, TBDT trung bình hàng năm của mỗi tính trạng ở đàn giống Landrace và Yorkshire ở các cơ sở giống A và B từ năm 2011 đến 2018 được đánh giá thông qua phép phân tích hồi quy tuyến tính của giá trị giống trung bình hay giá trị trung bình của chỉ số chọn lọc SPI của nhóm cá thể theo năm sinh bằng menu SCATTER trên bảng tính EXCEL với mô hình sau: y = bx + a T ong đó, y: Giá trị giống trung bình của tính trạng nghiên cứu của nhóm cá thể sinh ra trong cùng một năm a: Hằng số x: Năm sinh của nhóm cá thể b: Hệ số hồi quy – chính là mức tăng của giá trị giống/năm. 61 hương 3. KẾT Q Ả À T ẢO L Ậ 3.1. Phân tích ảnh hưởng của một số yếu tố cố định đến tính trạng số con sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa/ổ và khối lượng toàn ổ cai sữa ối với các tính trạng số con sơ sinh sống/ổ (SCSSS), số con cai sữa/ổ (SCCS) và khối lượng toàn ổ cai sữa (KLCS), kết quả phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố cố định bao gồm cơ sở giống, năm sinh, tháng đẻ, kiểu chuồng, lứa đẻ, tuổi đẻ, đực phối được trình bày trong bảng 3.1. Bảng 3.1: Mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố đến tính trạng SCSSS, SCCS và KLCS Giống Tính trạng nghiên cứu Số ổ đẻ (n) Các yếu tố ảnh hưởng ơ sở ăm sinh ăm đẻ Mùa vụ Lứa Kiểu chuồng ực phối Tuổi cai sữa Landrace SCSSS 5.652 ns ns * ** *** ns ns - SCCS 5.652 ** *** ** *** ns ** ns *** KLCS 5.652 *** * *** *** ns *** ns *** Yorkshire SCSSS 7.440 ** * *** ** *** ** ns - SCCS 7.440 ** * ** * ** ns ns *** KLCS 7.440 *** ** *** *** *** ns ns *** Ghi chú: -: kh ng kiểm t a; ns: P>0,05; *: P<0,05; **: P<0,01; ***: P<0,001 ối với giống Landrace, các yếu tố năm ổ đẻ được sinh ra và mùa vụ đều ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS, SCCS và KLCS với mức xác suất từ <0,05 đến P<0,001; tính trạng SCCS và KLCS bị ảnh hưởng rất rõ rệt bởi tuổi cai sữa (P<0,001). rong khi đó, yếu tố lứa đẻ chỉ ảnh hưởng đến 62 tính trạng SCSSS (P<0,001). Yếu tố kiểu chuồng ảnh hưởng đến tính trạng SCCS và KLCS với xác suất P<0,01-P<0,001. Riêng yếu tố đực phối không thấy ảnh hưởng đến cả ba tính trạng sinh sản trong nghiên cứu này. ối với đàn giống Yorkshire, yếu tố đực phối không ảnh hưởng đến cả ba tính trạng sinh sản nghiên cứu SCSSS, SCCS và KLCS. Yếu tố kiểu chuồng chỉ ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS (P<0,01). Trong khi các yếu tố khác như đàn giống, năm sinh, năm sơ sinh các ổ đẻ, mùa vụ, lứa đẻ và tuổi cai sữa đều có ảnh hưởng đến cả ba tính trạng sinh sản SCSSS, SCCS và KLCS với sai khác về mặt thống kê rõ rệt (xác suất từ <0,05 đến P<0,001). Các kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước: Estany và Sorensen (1995) khi phân tích về các tính trạng S R, S SSS, KLSS và KL S trên 97 lợn con lựa chọn từ AICRP; Das và Gaur (2000) cho thấy yếu tố cơ sở giống ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến tính trạng SCCS. Tạ Thị Bích Duyên (2003) khi nghiên cứu trên đàn lợn Landrace và Yorkshire nuôi tại các cơ sở An Khánh, Thụy hương và ông thấy yếu tố năm cũng như yếu tố cơ sở ảnh hưởng rất rõ rệt đến tính trạng SCSSS, SCCS và KLCS (P<0,001), yếu tố mùa vụ ảnh hưởng rất rõ rệt đến tính trạng SCSSS và KL S ( <0,001), nhưng chỉ ảnh hưởng ở mức <0,05 đối với tính trạng S S. heo ặng ũ ình (2002), khi phân tích một số nhân tố ảnh hưởng tới các tính trạng sinh sản của nái Landrace, Yorkshire nhận thấy các cơ sở khác nhau thì năng suất sinh sản của các lợn nái là khác nhau. Oh và cs (2006) nghiên cứu yếu tố Y (đàn-năm) ảnh hưởng rõ rệt (P<0,01) đến các tính trạng S SSS, S S và KL S. rên đàn lợn Landrace và Yorkshire của ông ty hăn nuôi miền Bắc, Trần Thị Minh Hoàng và cs (2006) cũng nhận thấy yếu tố trại và yếu tố năm ảnh hưởng ở mức rất rõ rệt đến tính trạng SCSSS, SCCS và KLCS (P<0,001), yếu tố mùa vụ cũng ảnh hưởng đến tính trạng SCCS và KLCS với mức P<0,001, tính trạng SCSSS 63 với mức P<0,05. Nguyễn Hữu Tỉnh (2009) công bố yếu tố trại, yếu tố năm đều có ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS, KLCS với mức P<0,05-P<0,001 trên đàn lợn Landrace và Yorkshire nuôi tại Trung tâm NC và HLCN Bình Thắng, Xí nghiệp lợn giống ông và ông ty cổ phần chăn nuôi heo hú Sơn từ năm 2000-2007. hư vậy, các cơ sở giống khác nhau thì năng suất sinh sản của các lợn nái là khác nhau. Các nguyên nhân chính có thể dẫn đến năng suất của các cơ sở giống khác nhau là do khác nhau về hệ thống quản lý, quy trình chăm sóc nuôi dưỡng, chế độ dinh dưỡng và điều kiện khí hậu ở các trại khác nhau. Trong thực tế sản xuất, các dữ liệu thu thập theo từng cá thể hay nhóm cá thể về mức ăn hầu như rất khó thực hiện, do vậy các ảnh hưởng này thường được quy chung về phương thức cho ăn, chăm sóc nuôi dưỡng khi thiết lập các nhóm tương đồng trong đánh giá di truyền. Một số nghiên cứu chỉ ra mùa vụ có ảnh hưởng rất rõ rệt đến các chỉ tiêu sinh sản. Koketsu và cs (1997) khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng bằng chương trình eneral Linear Model của SAS đã thấy nái đẻ vào mùa hè và mùa xuân có thời gian từ cai sữa đến phối có chửa lứa tiếp theo là dài nhất, trong đó nái đẻ vào mùa hè có khối lượng toàn ổ cai sữa thấp hơn nái đẻ vào mùa xuân. Lorvelec và cs (1998) nghiên cứu về ảnh hưởng của mùa vụ đến khả năng sinh sản của lợn nái Large White đã đưa ra kết luận số con sơ sinh/ổ của lợn nái sơ sinh trong mùa khô, mát cao hơn 25% so với mùa lạnh, ẩm ướt. Vázquez và cs (1998) nghiên cứu trên 524 lứa đẻ từ năm 1987 – 1989 của 171 nái đã nhận thấy yếu tố mùa vụ ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến 4 tính trạng: số con sơ sinh/ổ, số con sơ sinh sống/ổ, khối lượng toàn ổ ở các thời điểm 21 và 56 ngày tuổi. gược lại, Samanta và cs (1998) lại cho rằng mùa đẻ ảnh hưởng không có ý nghĩa thống kê đến các tính trạng số con sơ sinh sống/ổ và số con cai sữa/ổ. Theo Das và Gaur (2000) khi nghiên cứu qua 1 thời gian (1987-1994) trên 918 lợn con lai 64 (50% Landrace-50% Densi), ghi lại khối lượng lợn con vào lúc sơ sinh, 1 tuần tuổi cho đến khi cai sữa (8 tuần tuổi) nhận thấy mùa sinh ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của lợn con vào tuần thứ 1, 4, 5 và tuần thứ 8. Số con/ổ và sự đồng đều ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến khả năng sinh trưởng đến tuần thứ 5. Tháng 9, tháng 10 và tháng 11 là những tháng thích hợp nhất cho việc nái sản xuất sữa và lợn con đạt được tốc độ sinh trưởng cao nhất. h và cs (2006) cũng công bố lứa đẻ ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS, SCCS, KLCS ở mức P<0,01. Yếu tố mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt ( <0,01) đến tính trạng S SSS và S S khi Menčik và cs (2017) nghiên cứu trên 2.026 lứa đẻ của lợn giống Black Slavonian và 906 lứa đẻ của lợn giống Nero di Parma. Yếu tố mùa vụ cũng ảnh hưởng đến tính trạng S SSS và KL S đối với đàn lợn giống Landrace, Yorkshire nuôi tại Trung tâm NC và HLCN Bình Thắng, Xí nghiệp lợn giống ông và ông ty cổ phần chăn nuôi heo hú Sơn từ năm 2000-2007 (Nguyễn Hữu Tỉnh, 2009). Phạm Thị Kim Dung và Trần Thị Minh Hoàng (2009) khi nghiên cứu trên 5 dòng cụ kỵ nuôi tại Trại giống hạt nhân am iệp cũng công bố yếu tố mùa vụ ảnh hưởng rất rõ rệt ( <0,001) đến tính trạng SCSSS và SCCS, yếu tố năm ảnh hưởng ở mức <0,01 đối với tính trạng S SSS và <0,001 đối với tính trạng SCCS. Trịnh Hồng Sơn (2014) cũng công bố yếu tố năm ảnh hưởng rất rõ rệt đến tính trạng SCCS và KLCS (P<0,001) của đàn lợn giống 03 nhưng lại không ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS. Trên giống lợn Pietrain kháng stress, mặc dù yếu tố năm không ảnh hưởng đến tính trạng S SSS, S S và KL S, nhưng yếu tố trại có ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS và KLCS (P<0,05) (Hà Xuân Bộ, 2015). ặng Hoàng Biên (2016) cũng công bố yếu tố năm không ảnh hưởng đến SCSSS, SCCS và KLCS ở lợn Lũng ù và lợn Bản. Ở khu vực phía Nam, mùa vụ là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến chỉ tiêu sinh sản của hai giống lợn Landrace và Yorkshire có 65 nguồn gốc từ an mạch: mùa khô cho năng suất sinh sản cao hơn 3-7% so với mùa mưa ( guyễn Ngọc Thanh Yên và cs, 2018). ối với yếu tố lứa đẻ, nghiên cứu của Tạ Thị Bích Duyên (2003) trên ba cơ sở giống (An Khánh, Thụy hương và ông ) với 2867 lứa đẻ của 505 lợn nái Landrace và 1550 lứa đẻ của 241 lợn nái Yorkshire cũng chỉ ra yếu tố lứa đẻ ảnh hưởng ở mức P<0,001 với các tính trạng SCSSS, SCCS và KLCS. Lứa đẻ ảnh hưởng rất rõ rệt đến tính trạng SCSSS và SCCS của đàn lợn Landrace, Yorkshire nuôi tại ông ty hăn nuôi miền Bắc và chỉ ảnh hưởng ở mức <0,05 đối với tính trạng KLCS (Trần Thị Minh Hoàng và cs, 2006). Lứa đẻ cũng ảnh hưởng ở mức <0,001 đối với tính trạng SCSSS, KLCS của đàn lợn Landrace và Yorkshire (Nguyễn Hữu Tỉnh, 2009). Phạm Thị Kim Dung và Trần Thị Minh oàng (2009) đã công bố yếu tố lứa đẻ ảnh hưởng rất rõ rệt đến tính trạng SCSSS và SCCS (P<0,001). Trong một nghiên cứu khác trên hai nhóm lợn Móng Cái của Việt Nam MC3000 và MC15, Giang Hồng Tuyến (2009) cũng cho biết lứa đẻ là yếu tố gây ảnh hưởng rất rõ rệt đến tất cả các tính trạng sinh sản của hai nhóm giống này (P<0,001). Nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của lứa đẻ đến 1822 ổ đẻ của 438 nái VCN01 (dòng tổng hợp L11 mang nguồn gen của giống Yorkshire) và 2.781 ổ đẻ của 732 nái VCN02 (dòng tổng hợp L06 mang nguồn gen của giống Landrace) Trịnh Hồng Sơn và cs (2010) cũng kết luận yếu tố lứa đẻ ảnh hưởng rất rõ rệt đến các tính trạng số con sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa/ổ và khối lượng toàn ổ cai sữa với mức P<0,001. Kết quả công bố của Nguyễn ăn hắng và ũ ình ôn (2010) cho thấy, yếu tố lứa đẻ có ảnh hưởng rõ rệt ( <0,001) đến các chỉ tiêu về năng suất sinh sản của lợn nái. rên đàn lợn VCN03, yếu tố lứa đẻ chỉ ảnh hưởng đến SCSSS (P<0,01), các tính trạng SCCS, KLCS không bị ảnh hưởng bởi yếu tố này (Trịnh Hồng Sơn, 2014). Lứa đẻ ảnh hưởng đến tính trạng SCCS (P<0,05), không ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS và KLCS ở giống lợn 66 Pietrain kháng stress (Hà Xuân Bộ, 2015). Trên 2 giống lợn nội khác cũng cho thấy yếu tố lứa đẻ cũng ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS, SCCS và KLCS ở mức P<0,01-P<0,001 ở cả hai giống lợn Lũng ù và lợn Bản ( ặng Hoàng Biên, 2016). Tính trạng SCSSS và SCCS bị ảnh hưởng của yếu tố lứa đẻ một cách rất rõ rệt ( <0,001), Menčik và cs (2017) đã công bố kết quả này khi nghiên cứu trên 2026 lứa đẻ của lợn giống Black Slavonian và 906 lứa đẻ của lợn giống ero di arma. oàn hương húy (2017) nghiên cứu lứa đẻ ảnh hưởng rõ rệt đến tính trạng SCSSS và SCCS ở giống Yorkshire (P<0,01) và chỉ ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS (P<0,05) ở giống Landrace. Nghiên cứu trên lợn nái lai có sự tham gia của nguồn gen VCN-MS15, Lê ức Thạo (2017) ghi nhận lứa đẻ ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS thể hiện ở 2 lứa đẻ đầu chỉ đạt 11,96 con, nhưng từ lứa đẻ thứ 3 trở đi đã tăng lên 12,64 con trên lợn F1(Pi/DuxVCN-MS15) nuôi tại Thừa Thiên Huế; Nguyễn hi ương (2018) cũng khẳng định lứa đẻ ảnh hưởng đến các chỉ tiêu S SS, S SSS, S S, KLSS, KL S, K L và TLNS với mức độ (P<0,05). Hồ Thị Bích Ngọc và cs. (2020) cho biết cả 3 tính trạng SCSS, SCSSS và SCCS của đàn nái Landrace cấp giống ông bà và F1(LxY) cấp giống bố mẹ nuôi tại Trung tâm Giống òa ình đều bị ảnh hưởng bởi lứa đẻ: tăng từ lứa đẻ đầu lên lứa 5 và giảm ở lứa 6. Lê Thế Tuấn và cs (2020a, 2020b) cho thấy cứu lứa đẻ ảnh hưởng rõ rệt đến hầu hết các tính trạng sinh sản, nhất là 3 tính trạng SCSS, SCSSS và SCCS ở lợn nái lai F1(Landrace x VCN-MS15); F1(Yorkshire x VCN- MS15) và lợn nái lai 3 giống Yorkshire x F1(Landrace x VCN-MS15); Landrace x F1(Yorkshire x VCN-MS15). ối với yếu tố kiểu chuồng, Nguyễn Ngọc Thanh Yên và cs (2018) đã kết luận yếu tố kiểu chuồng nuôi là một trong hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến các chỉ tiêu năng suất sinh sản của hai giống lợn Landrace và Yorkshire có nguồn gốc từ an Mạch, cụ thể hệ thống chuồng kín đã góp 67 phần cải thiện 4-8% năng suất sinh sản so với hệ thống chuồng hở truyền thống tùy theo từng chỉ tiêu sinh sản của hai nguồn gen này. Petrovíc và cs (2013) khi phân tích yếu tố mùa vụ ( ông Xuân, è Thu) và yếu tố lứa đẻ trên 129 lứa đẻ của 53 lợn nái giống Mangalitsa đã thấy yếu tố lứa đẻ và mùa đẻ không ảnh hưởng đến tính trạng SCSSS và SCCS (P>0,05). Kết quả này ngược với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Sở dĩ có sự sai khác giữa nghiên cứu của nhóm tác giả trên và của chúng tôi có thể là do số lượng lứa đẻ của nhóm tác giả nghiên cứu còn ít. Trong nghiên cứu này, yếu tố đực phối không ảnh hưởng đến cả ba tính trạng SCSSS, SCCS và KLCS. Kết quả này phù hợp với kết quả của Nguyễn Hữu Tỉnh (2009). Các nghiên cứu trước đây, một số tác giả cho rằng các con đực phối ảnh hưởng đến năng suất sinh sản thông qua số lượng và chất lượng tinh dịch hoặc có thể có do ảnh hưởng về di truyền của con đực (See và cs, 1993; Nguyen Van Duc, 1997). Các yếu tố trên đã trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng sống sót, phát triển của phôi thai và sau đó ảnh hưởng đến tính trạng S SSS. rong khi đó, nghiên cứu của Van der Lende và cs (1999) cho rằng khả năng di truyền các ảnh hưởng của đực phối đến số con sinh ra/ổ là rất thấp. hư vậy, trong các chương trình giống lợn, nếu chọn lọc trực tiếp theo các ảnh hưởng của đực phối chưa chắc có thể cải thiện được các tính trạng về sơ sinh và cai sữa của lợn nái. Trong nghiên cứu hiện tại, quy trình kiểm tra năng suất đực giống và quy trình kiểm soát chất lượng tinh của lợn đực giống hàng ngày có thể đã loại bỏ nhưng cá thể có chất lượng tinh dịch không đạt tiêu chuẩn phối giống nhân tạo và không đưa vào phối giống các con đực có chất lượng tính kém, nên các ảnh hưởng của đực phối đến năng suất sinh sản của lợn nái không có ý nghĩa về mặt thống kê. Như vậy, kết quả phân tích ảnh hưởng của các yếu tố cố định trong nghiên cứu này đều phù hợp với các nghiên cứu đã công bố trước đây. ụ 68 thể, các yếu tố ảnh hưởng cố định bao gồm đàn giống, năm sinh, mùa vụ (tháng sinh), lứa đẻ, tuổi đẻ, kiểu chuồng nuôi và hiệp biến (tuổi cai sữa) đều có ảnh hưởng đến ba tính trạng nghiên cứu. Vì vậy, các yếu tố này cần được điều chỉnh trong các mô hình phân tích thống kê đánh giá di truyền các tính trạng sinh sản SCSSS, SCCS và KLCS
File đính kèm:
luan_an_xac_dinh_mo_hinh_thong_ke_di_truyen_phu_hop_uoc_tinh.pdf
2.TranThiMinhHoàng.Tom tat LA TV.pdf
3.TranThiMinhHoàng.Tom tat LA TA.pdf
4. Thông tin đóng góp mới của LA.doc
5.Trích yếu LA.doc