Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 9

Trang 9

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 146 trang nguyenduy 01/08/2025 80
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam

Luận án Xác định nhu cầu năng lượng cho duy trì và tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam
ll và Jenkins, 1998; Tangjitwattanachai và cs., 2009 a, b; Cardenas-Medina và cs., 2010).
Trong một thí nghiệm trên bò sữa Vũ Chí Cương và cộng sự (2010 a), với n = 22 thấy km của bò cái tơ lỡ lai 3/4 HF, khối lượng trung bình 224,3 kg là 0,716, dao động từ 0,620 đến 0,8235 và không phụ thuộc vào loại khẩu phần cho ăn, không có sự sai khác của km ở các khẩu phần khác nhau (P>0,05). 
3.1.2.2. Giá trị MEm và NEm
Theo Kawashima và cộng sự (2000), NEm của bò Brahman Thái Lan và bò địa phương Thái Lan tương ứng là 0,377 Mj/kg W0,75 và 0,245 Mj/kg W0,75. Trên cơ sở các số liệu của các tác giả Chizzotti và cs. (2008) trên bò Nellore; Chaokaur và cs. (2007) trên bò Brahman; Chizzotti và cs. (2007) trên bò lai Nellor x Red Angus; Tedeschi và cs. (2002) trên bò Nellore. Tedeschi và cs. (2002) trên bò Nellore; Dawson và Steen (1998) trên bò lai nuôi thịt tại Việt Nam; Hotovy và cs. (1991) trên bò lai nuôi thịt tại Việt Nam; Montano-Bermudez và cs. (1990) trên bò lai nuôi thịt tại Việt Nam cho thấy: NEm trung bình là 0,323 và dao động từ 0,298 đến 0,4145 Mj/kg W0,75 cho bò Bos indicus và con lai.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trong nghiên cứu này NEm = 0,367 Mj/kg W0,75 cũng nằm trong khoảng NEm được công bố (Kawashima và cs., 2000; Chizzotti và cs., 2008; Chaokaur và cs., 2007; Chizzotti và cs., 2007; Tedeschi và cs., 2002; Dawson và Steen, 1998; Hotovy và cs., 1991; Montano-Bermudez và cs., 1990. 
Sự tương đồng trong việc xác định NEm trong nghiên cứu này cho thấy NEm (KJ/kg W0,75) ở bò có xu hướng bị ảnh hưởng bởi khối lượng, nhưng sai khác không đáng tin cậy về mặt thống kê (P = 0,11) (Freetly và cs., 2006). Tương tự như vậy, Kebreab và cộng sự (2007) cho thấy NEm (KJ/kg W0,75) ở bò là như nhau cho dù bò được ăn khẩu phần gì trước khi đưa vào vỗ béo.
Giá trị NEm = 0,367 Mj/kg W0,75 trong nghiên cứu này ở thí nghiệm trao đổi đói cũng khá tương đồng với giá trị tính được từ các thí nghiệm dinh dưỡng khi lấy nhu cầu tăng trọng của bò lai Thái Lan 26,02 Mj ME/kg tăng trọng. Giá trị NEm tính theo nhu cầu tăng trọng của bò lai Thái Lan là 0,34 Mj/kg W0,75. 
Có rất ít thông tin tham khảo về ảnh hưởng của gia súc, khẩu phần và các yếu tố quản lý đến nhu cầu năng lượng trao đổi cho duy trì, tăng trọng ở bò sinh trưởng, tiết sữa, nuôi thai. Hay nói cách khác, có ít các thông tin về hiệu quả sử dụng ME cho các chức năng khác nhau (km, kl, kg,...) (Cottrill và cs., 2010). Đây là một mảng trống lớn trong hiểu biết của chúng ta hiện nay.
Theo NRC (2000), MEm = 77 kcal/kg W0,75 hay 322 kJ/kg W0,75. Bò Bos Indicus có MEm thấp hơn 10% so với MEm của bò Bos taurus châu Âu, còn bò lai có giá trị MEm trung gian. Chaokaur và Sommart (2008), phân tích từ 20 báo cáo cho thấy MEm của bò Bos indicus là 443 kJ/kg W0,75 thấp hơn của bò Bos taurus là 12,3% (505 KJ/kg W0,75). Theo NRC (2001), với thức ăn nhiệt đới MEm cho bò Bos indicus là 441 KJ/kgW0,75, thấp hơn bò Bos taurus 11%: 495 KJ/kg W0,75.
Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng trao đổi cho duy trì như: Tuổi: Do có sự khác nhau đáng kể về nhu cầu năng lượng trao đổi cho duy trì giữa gia súc non và gia súc trưởng thành và kích thước cơ thể khác nhau nên tiêu chuẩn ăn, tính theo năng lượng thuần (Net energy: NE) của châu Âu và NRC (1996) cho bò sinh trưởng có thể thấp hơn so với thực tế (Agnew và Yan, 2000). Yếu tố giống được xác định là có ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu năng lượng trao đổi cho duy trì của bò, nhưng do sự thiếu các dữ liệu sẵn có trên bò sữa nên một số hệ thống dinh dưỡng (ARC, 1980), sử dụng các giá trị xác định trên bò cạn sữa và bò thịt, để ước tính nhu cầu cho bò sữa. Đối với các hệ thống khác (NRC, 1996), nhu cầu được xác định trên bò vắt sữa trưởng thành, nuôi ở mức sản xuất, do đó về lí thuyết sẽ gần đúng với nhu cầu của bò sữa hơn.
Theo Odai và cs. (2005), nhu cầu MEm của bò lai HF (0,409 Mj ME/kg W0,75) cao hơn của bò Brahman (0,334 Mj ME/kg W0,75) và của bò địa phương Thái Lan (0,245 Mj ME/kg W0,75). NRC (1996) cũng cho rằng MEm của các giống bò hướng sữa thường cao hơn so với bò hướng thịt. Ngoài ra nhu cầu năng lượng trao đổi cho duy trì còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố về nội hormone... (Pond và cs., 2005).
Giá trị MEm tính được từ các nghiên cứu của Viện sinh học, thực phẩm và nông nghiệp, Bắc Ailen (AFBI) là 0,63 Mj/kg W0,75. Giá trị MEm của AFRC (1993), SCA (1990), INRA (1989) và NRC (2000) là 0,48; 0,49; 0,52 và 0,45 Mj/kg W0,75. Các giá trị này chỉ tương ứng bằng: 76, 78, 83 và 71% giá trị thu được trong các nghiên cứu của AFBI.
Bên cạnh các phương trình và số liệu do các ủy ban quốc gia công bố, số liệu về nhu cầu năng lượng trao đổi cho duy trì (MEm và NEm) của bò thịt cũng đã được công bố rất nhiều. Ở đây chúng ta sẽ xem xét các số liệu có từ năm 1989. 
Các kỹ thuật để có được các số liệu về nhu cầu năng lượng trao đổi cho duy trì bao gồm: Sản xuất nhiệt khi đói, hồi qui đường thẳng giữa năng lượng được giữ lại trong các sản phẩm (sữa, thịt, tăng trọng) với ME ăn vào và đường thẳng hồi qui giữa lượng thức ăn ăn vào, nhiệt sản xuất ra với ME ăn vào (Cottrill và cs., 2010). 
Trên cơ sở các số liệu của các tác giả Chizzotti và cs. (2008) nghiên cứu trên bò Nellore; Chaokaur và cs. (2007) trên bò Brahman; Chizzotti và cs. (2007) trên bò lai Nellor x Red Angus; Tedeschi và cs. (2002) trên bò Nellore; Tedeschi và cs. (2002) trên bò Nellore; Dawson và Steen (1998) trên bò lai nuôi thịt tại Việt Nam; Hotovy và cs. (1991) trên bò lai nuôi thịt tại Việt Nam; Montano-Bermudez và cs. (1990) trên bò lai nuôi thịt tại Việt Nam cho thấy: MEm (Mj/kg W0,75) bình quân là 0,50 Mj/kg W0,75và dao động từ 0,42 đến 0,61 cho bò Bos indicus và con lai.
Đối với bò Bos taurus và con lai ôn đới, trên cơ sở các số liệu của các tác giả Reynolds và Tyrrell (2000) trên bò Hereford x Angus; Laurenz và cs. (1991) trên bò Simmental; Laurenz và cs. (1991) trên bò Angus; Reid và cs. (1991) trên bò Hereford; Reid và cs. (1991) trên bò Red Poll; Reid và cs. (1991) trên bò lai Hereford x Red Poll; Reid và cs. (1991) trên bò Red Poll x Hereford; Reid và cs. (1991) trên bò Angus x Hereford; Reid và cs. (1991) trên bò Angus x Charolais; Montano-Bermudez và cs. (1990) trên bò Hereford x Angus, Montano-Bermudez và cs. (1990) trên bò Red Poll x Angus; Montano-Bermudez và cs. (1990) trên bò Shrothorn x Angus; Montano-Bermudez và cs. (1990) trên bò Hereford x Angus; Montano-Bermudez và cs. (1990) trên bò Red Poll x Angus; Montano-Bermudez và cs. (1990) trên bò Shrothorn x Angus; Derno và cs. (2005) trên bò Hereford; Kim và cs. (2004) trên bò Hanwoo; Campeneere và cs. (2001) trên bò Belgian Blue; Gordon và cs. (1999) trên Bò thịt x Bò sữa lai; Nicolae và Burlacu (1995) trên bò Holstein cho thấy MEm bình quân là 0,61 Mj ME/kg W0,75 và dao động từ 0,444 đến 0,704 Mj ME/kg W0,75. 
Giá trị MEm cho bò thịt khi tính chung cho cả Bos indicus và Bos taurus và con lai dao động từ 0,444 đến 0,707, trung bình 0,583 Mj/kg W0,75 (SD: 0,0605). Những giá trị thấp 0,444 (Laurenz và cs.,1991), 0,490 (Montano-Bermudez và cs.,1990) và 0,503 (Reynolds và Tyrrell. 2000) gần với các giá trị của NRC (2000), AFRC (1993), SCA (1990) và INRA (1989) (0,45; 0,47; 0,49 và 0,51 Mj/kg W0,75), khi giả sử rằng km là 0,72. Tuy nhiên, các giá trị MEm cao trong các nghiên cứu của Reid và cs. (1991) và Calegare và cs. (2007) cao hơn 25% hoặc hơn so với các giá trị được khuyến cáo trong các hệ thống dinh dưỡng. Giá trị bình quân MEm là 0,583 Mj/kg W0,75 từ các tài liệu tham khảo cao hơn các giá trị khuyến cáo của NRC (2000), AFRC (1993), SCA (1990) và INRA (1989) tương ứng là 30; 24; 19 và 14%.
Giá trị MEm được Kearl (1982) sử dụng là 0,494 Mj/kg W0,75, giá trị này cho Bò Brahman, bò địa phương Thái Lan và bò lai là 0,486; 0,483 và 0,493 Mj/kg W0,75. Theo Nivaldo de Faria Sant´Ana và cs. (2011), Nellore và con lai có nhu cầu MEm = 569 Mj/kg W0,75 và km = 0,63. Gần đây Quigley và cs. (2014) cho thấy: MEm cho bò Bali (indonesia) là 0,47 Mj ME/kg W0,75 , bò Bali ở Timor Leste có MEm là 0,40 đến 0,42 Mj ME/kg W0,75 (Yuliaty và cs., 2014).
Rõ ràng là bò Bos indicus sử dụng năng lượng trao đổi cho duy trì hiệu quả hơn bò Bos taurus nên MEm (Mj/kg W0,75) của chúng thường thấp hơn giá trị này của bò Bos taurus (0,50 so với 0,61 Mj/kg W0,75). Theo nhiều tác giả Bos indicus và Bos taurus khác nhau về nhu cầu MEm (Frisch và Vercoe 1977; Solis và cs. 1988; Ferrell và Jenkins 1998; Tangjitwattanachai và cs. 2009 a, b; Cardenas-Medina và cs. 2010).
Như vậy giá trị MEm = 0,52 Mj/kg W0,75 trong nghiên cứu này ở thí nghiệm trao đổi đói nằm trong khoảng các giá trị này của bò Bos indicus và con lai và thấp hơn các giá trị cho bò Bos taurus.
Nhận xét chung 
Kết quả thí nghiệm cho thấy, sản lượng nhiệt sản sinh ở trao đổi cơ bản (FHP) và nuôi duy trì (HP) của bò tương ứng là 0,333 Mj NE/kg W0,75 hay 0,47 Mj ME/kg W0,75 và km = 0,71. 
Sau khi hiệu chỉnh theo NRC (1988) thì nhu cầu năng lượng trao đổi cho duy trì của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam là 0,52 Mj ME/kg W0,75 hay 0,37 Mj NE/kg W0,75. 
Hệ số sử dụng năng lượng trao đổi cho duy trì (km) của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam là 0,71.
3.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2: XÁC ĐỊNH NHU CẦU NĂNG LƯỢNG TRAO ĐỔI CHO TĂNG TRỌNG (MEg) CỦA BÒ LAI NUÔI THỊT TẠI VIỆT NAM
3.2.1. Kết quả 
3.2.1.1. Phân tích bộ số liệu vỗ béo bò thứ nhất để ước tính nhu cầu năng lượng trao đổi cho tăng trọng (MEg)
Như đã trình bày ở phần phương pháp nghiên cứu, các thí nghiệm bộ vỗ béo bò thứ nhất bắt đầu từ 10 và kết thúc 19 tháng tuổi. Bò nuôi với khẩu phần cỏ voi, hạt bông thô và rơm. Số liệu được tổng hợp và trình bày ở bảng 3.3. 
Bảng 3.3. Nhu cầu năng lượng trao đổi cho tăng trọng của bộ số liệu 
vỗ béo bò thứ nhất (n=59)
Chỉ tiêu
Mean
SE
SD
Min
Max
KL trước thí nghiệm (kg) 
195,75
1,12
8,61
190
215
KL kết thúc thí nghiệm (kg) 
254,39
1,15
8,85
248,5
272,2
KL trao đổi (W0,75, kg)
58,10
0,214
1,646
56,88
61,64
Tăng trọng chung (g/con/ngày)
663,7
9,40
7,23
607,1
801,2
DM ăn vào (kg/con/ngày)
5,42
0,018
0,136
5,32
5,77
ME/kg DM thức ăn (Mj)
8,97
0,117
0,895
7,99
9,84
MEI (Mj/con/ngày)
48,66
0,682
5,242
43,36
55,90
MEm (Mj/con/ngày)*
30,21
0,111
0,856
29,58
32,05
MEg (Mj/con)
18,44
0,666
5,114
13,21
25,85
ME (Mj/kg tăng trọng) 
27,53
0,822
6,312
14,60
40,71
Chú thích: KL: Khối lượng; Thí nghiệm; DM: Chất khô; MEI: Năng lượng trao đổi ăn vào; MEm: Năng lượng trao đổi cho duy trì; MEg: Năng lượng trao đổi cho tăng trọng.
* MEm = 0,52 x W0,75
W0,75 : Khối lượng trao đổi.
MEg = MEI - MEm.
Số liệu ở bảng 3.3 cho thấy, bò tăng trọng trung bình là 663,7 g/ngày (607,1-801,2 g/ngày). Lượng vật chất khô ăn vào 5,42 kg/con/ngày (5,32-5,77 kg) và FCR là 8,17. Giá trị ME cho 1 kg vật chất khô 8,97 Mj (7,99-9,84 Mj/kg DM). Ước tính ME cho duy trì (theo kết quả của thí nghiệm 1 (0,52 Mj ME/kg W0,75) là 30,21 Mj/con/ngày (29,58-32,05 Mj ME). 
Từ năng lượng trao đổi ăn vào (MEI) và năng lượng trao đổi cho duy trì (MEm), chúng tôi tính được nhu cầu cho tăng trọng là 18,44 Mj ME/con/ngày (13,21-25,85 Mj ME). Do đó, nhu cầu ME cho tăng trọng của bò lai có khối lượng bình quân 195,75-254,39 kg ở các thí nghiệm này là 27,53 Mj ME/kg tăng trọng (SE = 0,822), dao động 14,6-40,7 Mj.
3.2.1.2. Phân tích bộ số liệu vỗ béo bò thứ hai để ước tính nhu cầu năng lượng trao đổi cho tăng trọng (MEg) 
Như đã trình bày ở phần phương pháp nghiên cứu, các thí nghiệm bộ số liệu vỗ béo bò thứ hai bắt đầu từ 6 và kết thúc 19 tháng tuổi. Bò nuôi với khẩu phần cỏ voi ủ chua, cỏ tự nhiên và rơm. Tổng hợp kết quả các thí nghiệm trình bày ở bảng 3.4.
Bảng 3.4. Nhu cầu năng lượng trao đổi cho tăng trọng của bộ số liệu vỗ béo bò thứ hai (n=70)*
Chỉ tiêu
Mean
SE
SD
Min
Max
KL trước thí nghiệm (kg) 
190,98
1,71
14,30
157,10
215,0
KL sau thí nghiệm (kg) 
249,09
1,84
15,43
208,90
272,2
KL trao đổi (W0,75, kg)
57,11
0,35
2,89
49,77
61,64
Tăng trọng (g/con/ngày)
658
0,01
0,07
520
801
MEI (Mj/con/ngày)
47,93
0,64
5,34
37,30
55,90
MEm (Mj/con/ngày)
29,69
0,18
1,50
25,88
32,05
MEg (Mj/con/ngày)
18,24
0,59
4,97
8,60
25,85
ME (Mj/kg tăng trọng)
27,49
0,75
6,26
14,60
40,71
*Xem chú thích ở bảng 3.3, ME: Năng lượng trao đổi.
Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy, bò lai bắt đầu thí nghiệm có khối lượng 190,98 kg (SE = 1,12 kg) và khối lượng kết thúc thí nghiệm là 249,09 kg (SE = 1,15 kg). Tăng khối lượng trung bình hàng ngày là 658 g (520-801 g). Năng lượng ăn vào là 47,93 Mj ME/con/ngày (37,3-55,9 Mj ME). Nhu cầu duy trì tính theo kết quả nghiên cứu 1 là 29,69 Mj ME/con/ngày và nhu cầu cho tăng trọng là 18,24 Mj ME/con/ngày (8,6-25,85 Mj ME). 
Do đó, nhu cầu ME cho 1 kg tăng trọng ở đây là 27,49 Mj ME (14,6-40,71 Mj ME). Mặc dù dao động về nhu cầu duy trì là không lớn (25,88-32,05 Mj ME/con/ngày) nhưng nhu cầu ME cho 1 kg khối lượng tăng lên dao động lớn (chênh lệch giữa cao nhất và thấp nhất là 2,79 lần). 
Sự chênh lệch lớn về nhu cầu ME cho 1 kg tăng trọng ở cả 2 nhóm bò nuôi dưỡng khác nhau và lứa tuổi khác nhau có thể do tăng khối lượng quá khác nhau giữa các cá thể. Mặc dù vậy, khi so sánh giá trị trung bình về nhu cầu ME cho 1 kg tăng trọng ở 2 nhóm thì không thấy sự sai khác (27,49 và 27,53 Mj ME/kg tăng trọng). 
Vì vậy, chúng tôi đề xuất giá trị nhu cầu năng lượng trao đổi cho 1 kg khối lượng tăng là 27,5 Mj ME cho bò lai nuôi thịt tại Việt Nam. Dựa vào giá trị đề xuất này và kết quả các thí nghiệm nêu ở nội dung nghiên cứu 2, phương trình tương quan hồi quy giữa tăng trọng (ADG, kg/con/ngày) lý thuyết với tổng ME ăn vào thực tế (MEI, Mj/con/ngày) đã được tính toán. Tương quan hồi quy được thể hiện qua đồ thị như sau: 
Đồ thị 3.1. Hồi quy giữa tăng trọng lý thuyết và năng lượng trao đổi
 ăn vào thực tế
Phương trình hồi quy có dạng sau:
ADG lý thuyết (kg/con/ngày) =-0,4066 + 0,02232 MEI; R2=0,723; P<0,01
Theo Palic và Muller (2006), phương trình hồi qui có R2>0,7 và P<0,01 có thể chấp nhận sử dụng được. Vì vậy, phương trình hồi quy trong nghiên cứu này có thể được khuyến cáo sử dụng. So sánh ADG lý thuyết với ADG thu được từ các nghiên cứu hiện tại được thể hiện ở bảng 3.5. 
Bảng 3.5. So sánh tăng trọng trung bình hàng ngày theo công thức và tăng trọng trung bình hàng ngày thực trong nghiên cứu (n=70)
Chỉ tiêu
Mean
SE
SD
Min
Max
ADG thực(1) (g/con/ngày)
658,41 
8,71 
72,86 
517,86 
801,19
ADG tính toán(2) (g/con/ngày)
658,50 
7,43 
62,13 
521,98 
756,42
Hiệu (2-1)
0,09 


 -54,78
 -28,38
Chú thích: ADG: Tăng trọng trung bình ngày. 
Kết quả ở bảng cho thấy: ADG thực và ADG tính theo phương trình (lý thuyết) không có sai khác về thống kê (P>0,05), hiệu số giữa giá trị trung bình cực bé. Điều đó cho thấy phương trình chấp nhận được để sử dụng tính nhu cầu năng lượng trao đổi cho tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam. Đồng thời kết quả này cũng cho thấy có thể sử dụng giá trị: 27,5Mj ME/kg tăng trọng là giá trị MEg nhu cầu của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam.
3.2.2. Thảo luận
Kết quả phân tích bộ số liệu vỗ béo bò thứ nhất và kết quả phân tích bộ số liệu vỗ béo bò thứ hai có nguồn gốc (lấy nhu cầu MEm = 0,52 Mj/kg W0,75 trong thí nghiệm trước đó) cho thấy: Đối với bò lai nuôi thịt tại Việt Nam, nhu cầu ME cho tăng trọng (khối lượng từ 195,75 kg đến 254,39 kg là 27,53 Mj ME/kg tăng trọng ở các thí nghiệm bộ số liệu vỗ béo bò thứ nhất và khối lượng từ 190,98 kg đến 249,09 kg là 27,49 Mj ME/kg tăng trọng ở các thí nghiệm bộ số liệu vỗ béo bò thứ hai. Hai giá trị này không khác biệt lớn nên có thể lấy giá trị 27,5 Mj ME/kg tăng trọng (SE: 0,748; SD: 6,26) là giá trị nhu cầu MEg bò lai nuôi thịt tại Việt Nam.
Giá trị MEg trong nghiên cứu của chúng tôi 27,5 Mj ME/kg tăng trọng khá tương đồng với giá trị này trong một số nghiên cứu khác. Theo Nitipot và cs. (2010) MEg của bò thịt chung Bos indicus, bò địa phương Thái Lan và bò Brahman lai nuôi ở Thái Lan là 31,60; 31,30; và 30,55 Mj ME/kg tăng trọng. Cũng theo Nitipot và cs. (2009), MEg của bò địa phương Thái Lan là 31,37 Mj ME/kg tăng trọng.
Một số nghiên cứu khác cho thấy giá trị cao hơn của nghiên cứu hiện tại khá nhiều. Yuliaty và cs. (2014) cho biết giá trị MEg của bò Bali ở Timor Leste là 39,2 Mj ME/kg tăng trọng; hay 34 Mj ME/kg tăng trọng ở bò Bali Indonesia (Quigley và cs., 2014). Theo Nitipot và cs. (2010), MEg của bò thịt (Bos indicus) ngoài Thái Lan là 41,47 Mj ME/kg tăng trọng.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác cho kết quả thấp hơn kết quả trong nghiên cứu này. Theo Nitipot và cs. (2010), MEg của bò thịt (Bos indicus) nuôi tại Thái Lan và bò Brahman Thái Lan là 25,92 và 21,39 Mj ME/kg tăng trọng. Cũng theo Nitipot và cs. (2009), MEg của bò Brahman nuôi tại Thái Lan là 22,67 Mj ME/kg tăng trọng. 
Có sự khác biệt về nhu cầu tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam trong nghiên cứu của chúng tôi với nhiều công bố trên các giống bò thịt khác nhau, nuôi ở các vùng khác nhau trong các điều kiện môi trường khác nhau. Sự khác biệt này là hoàn toàn logic và đã có nhiều minh chứng cho sự khác biệt này. 
Trước hết, rất nhiều nghiên cứu đã cho thấy: Bò Bos indicus và Bos taurus có khác nhau về nhu cầu MEm và MEg (Frisch và Vercoe 1977; Solis và cs., 1988; Ferrell và Jenkins 1998; Tangjitwattanachai và cs., 2009 a, b; Cardenas-Medina và cs., 2010). Đồng thời hiệu quả sử dụng năng lượng cho sản xuất trong đó có hiệu quả sử dụng năng lượng trao đổi cho tăng trọng phụ thuộc rất lớn vào sự khác biệt do di truyền (Archer và cs., 1999) và môi trường (Johnson và cs., 2003; Calegare và cs., 2007). 
Hơn thế nữa, Tangjiwatanachai và cs. (2009 a, b) nhận xét rằng nhu cầu dinh dưỡng của bò ở các vùng ôn đới theo các tiêu chuẩn của NRC, ARC có thể sẽ khác với nhu cầu này ở vùng nhiệt đới do sự khác biệt về di truyền, khối lượng lúc thành thục, chất lượng thức ăn, điều kiện thời tiết khí hậu và sử dụng thức ăn. Paul và cs. (2003). Cottrill (2010) còn cho rằng nhu cầu năng lượng cho tăng trọng của các kiểu gen bò thịt hiện nay do cải tiến về mặt di truyền cần phải được đánh giá lại và các nhu cầu này hiện rất khác so với trước kia vì tỷ lệ nạc/mỡ trong thân thịt hiện nay đã thay đổi.
Nhận xét chung
Kết quả phân tích số liệu cho thấy nhu cầu ME cho tăng trọng của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam là 27,5 Mj ME/kg tăng trọng. Khuyến cáo sử dụng giá trị này là nhu cầu MEg của bò lai nuôi thịt tại Việt Nam.
Quan hệ giữa tăng trọng (ADG, kg/con) và tổng năng lượng trao đổi ăn vào (MEI, Mj ME) hàng ngày có quan hệ kiểu tuyến tính bậc nhất, đáng tin cậy về thống kê dạng:
ADG = -0,4066 + 0,02232 x MEI (R2 = 0,723; P<0,01)
Hệ số xác định của hàm trên là 0,723 còn 0,277 chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác. Với hệ số xác định lớn hơn 70% thì hàm này được phép sử dụng để dự báo kết quả tăng trọng của bò.
3.3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3: SO SÁNH NHU CẦU NĂNG LƯỢNG TRAO ĐỔI CHO DUY TRÌ, TĂNG TRỌNG CHO BÒ LAI NUÔI THỊT TẠI VIỆT NAM VỚI CÁC NHU CẦU TƯƠNG ĐƯƠNG CỦA THÁI LAN
3.3.1. So sánh nhu cầu năng lượng trao đổi cho duy trì và tăng trọng cho bò lai nuôi thịt tại Việt Nam xác định được trong bộ số liệu vỗ béo bò thứ nhất với các nhu cầu tương đương của Thái Lan
3.3.1.1. Giá trị năng lượng trao đổi ăn vào (MEI) 
Kết quả ở bảng 3.6 cho thấy năng lượng trao đổi ăn vào (MEI) thực tế trong bộ số liệu vỗ béo bò thứ nhất của nghiên cứu này và MEI lý thuyết dao động từ 45,33 đến 49,05 Mj ME/con/ngày và sai khác về thống kê (P<0,05). 
Bảng 3.6. Giá trị năng lượng trao đổi ăn vào ở bộ số liệu vỗ béo bò 
thứ nhất tại Việt Nam với giá trị năng lượng trao đổi ăn vào lý thuyết 
của bò thịt ở Thái Lan

Chỉ tiêu
Mean ± SE
SD
Min
Max
1
Khối lượng ban đầu (kg)
195,75±1,12
8,61
190
215
2
Khối lượng kết thúc (kg)
254,39±1,15
8,85
248,5
272,2
3
Khối lượng trao đổi (kg)
58,101±0,214
1,646
56,88
61,64
4
Tăng trọng (kg/con/ngày)
0,667±0,009
0,072
0,607
0,801
5
MEI (Mj/con/ngày)
48,657±0,682
5,242
43,37
55,90
Bò Brahman Thái Lan
6
MEg LT1 (22,67 x TT) 
15,046 ±0,213
1,638
11,740
18,163
7
MEm LT1 (0,486 x KLTĐ) 
28,237±0,104
0,800
26,810
29,958
8
MEI LT 1 (6+7)
49,057a±0,338
2,595
43,616
53,334
Bò địa phương Thái Lan
9
MEg LT 2 (31,37)
20,820±0,295
2,266
16,245
25,133
10
MEm LT2 (0,483) 
28,063±0,104
0,795
26,645
29,773
11
MEI LT 2 
45,332b±0,290
2,226
40,584
48,874
Bò lai Brahman Thái Lan
12
MEg LT 3(26,02) 
17,269±0,245
1,880

File đính kèm:

  • docluan_an_xac_dinh_nhu_cau_nang_luong_cho_duy_tri_va_tang_tron.doc