Luận án Xác định tác nhân vi khuẩn gây bệnh xuất huyết trên cá bống kèo (Pseudapocryptes elongatus)

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Xác định tác nhân vi khuẩn gây bệnh xuất huyết trên cá bống kèo (Pseudapocryptes elongatus)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Xác định tác nhân vi khuẩn gây bệnh xuất huyết trên cá bống kèo (Pseudapocryptes elongatus)

); (B): Bạch cầu trung tính (↓); (C): Bạch cầu đơn nhân (↓), Tế bào lympho (↓). a. Số lƣợng tổng bạch cầu Kết quả phân tích mẫu cho thấy, số lượng bạch cầu trong máu cá dao động từ 290.000 – 990.000 tế bào/ml. Đối với ao cá khỏe có tổng số lượng bạch cầu trung bình 34,2 x 104 tế bào/ml thấp so với các ao nuôi cá đang có dấu hiệu bệnh xuất huyết có tổng lượng bạch cầu cao trung bình 81,8 x 104 tế bào/ml. Số lượng bạch cầu ở các ao nuôi cá có dấu hiệu bệnh xuất huyết khác biệt mang ý nghĩa thống kê (P<0,05) (Bảng 4.10). 67 Bảng 4.10 Số lượng bạch cầu trên cá bống kèo Ao Mật độ bạch cầu (tế bào x 104/ml) Ao cá bình thường Ao 4 45,80±8,97 c Ao 5 50,25±6,27 c Ao 8 34,28±5,05 d Ao cá bệnh xuất huyết Ao 1 82,50±7,25 ae Ao 2 73,40±11,64 b Ao 3 76,70±9,09 ab Ao 6 82,90±5,93 ae Ao 7 84,90±6,33 e Ao 9 85,42±5,74 e Ao 10 84,40±6,39 e Ao 11 85,50±7,42 e Các giá trị trong cùng một cột (a, b, c, d) có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) và ngược lại. Theo Houston (1990) bạch cầu có vai trò thực bào và đáp ứng miễn dịch chống lại mầm bệnh xâm nhập và các nhân tố bất lợi khác. Sự gia tăng mật độ bạch cầu trong máu là cơ chế để vật chủ chống lại tác nhân bên ngoài xâm nhập (Benli và Yildiz, 2004), bạch cầu của cá luôn tăng lên ở cá nhiễm bệnh, nhiễm độc ở giai đoạn đầu và giảm dần ở thời điểm về sau do sự suy yếu miễn dịch. Do đó, sự tăng lên của tế bào bạch cầu trên cá bống kèo bị xuất huyết là một trong những đặc điểm sinh học bệnh lý và báo động tình trạng sức khỏe của cá trong ao nuôi. b. Bạch cầu đơn nhân Kết quả định lượng cho thấy, bạch cầu đơn nhân trong các ao nuôi cá bống kèo dao động từ 10.800 – 211.500 tế bào/ml. Số lượng bạch cầu đơn nhân ớ các ao nuôi có dấu hiệu bệnh cao hơn so với ao nuôi cá khỏe và có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê (P<0,05) (Bảng 4.11). Bảng 4.11 Kết quả so sánh các loại bạch cầu ở cá bống kèo Ao Mật độ các loại bạch cầu (tế bào x 104/ml) BC Đơn nhân BC Trung tính Tiểu cầu Lympho Ao cá bình thường 4 6,18±2,66 cd 11,23±6,11 bc 15,98±3,47 b 12,40±8,51 a 5 8,21±4,61 abcd 7,80±4,38 b 14,61±2,32 b 19,61±7,06 ac 8 3,16±1,07 d 3,28± 4,31 b 11,25±1,21 ab 16,58±2,43 a Ao cá bệnh 1 13,25±4,53 a 36,27±5,22 a 17,32±7,94 ab 15,66±6,90 a 2 8,94±6,35 abcd 27,7±13,35 acd 12,85±4,13 ab 23,88±14,87 ab 3 9,84±7,05 abcd 19,07±11,88 bd 13,50±6,73 ab 34,28±10,91 bc 6 15,29±5,26 a 27,74±7,12 ad 16,62±4,52 b 23,23±7,58 ad 7 12,06±2,75 a 30,54±6,43 ad 9,81±1,65 a 32,47±5,37 bd 9 10,79±2,97 ac 23,14±6,34 cd 11,04±1,12 a 40,44±5,75 b 10 8,80±2,98 ac 24,89±6,53 d 11,09±4,08 ab 39,60±6,46 b 11 10,43±3,92 ac 24,39±11,86 d 14,50±5,96 ab 36,15±6,46 b Các giá trị trong cùng một cột (a, b, c, d) có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) và ngược lại. 68 Qua kết quả Bảng 4.11 cho thấy, số lượng bạch cầu đơn nhân ở ao cá khỏe khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với ao cá bệnh (trừ ao 5). Mật độ bạch cầu đơn nhân ở ao cá khỏe thấp hơn mật độ bạch cầu đơn nhân ở ao có dấu hiệu bệnh lý. c. Bạch cầu trung tính Kết quả phân tích, mật độ bạch cầu trung tính của cá bống kèo dao động khoảng 0,61x104 tb/ml đến 54 x104 tb/ml. Số lượng bạch cầu trung tính ở ao cá khỏe khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với ao cá bệnh (Bảng 4.11). d. Tế bào lympho Qua Bảng 4.11 cho thấy, tế bào lympho ở các ao dao động từ 2,2 x 104 đến 47,5 x 104 tế bào/ml, mật độ trung bình cao nhất ở ao cá bệnh số 9 (40,44 ± 5,75 x 10 4 tế bào/ml) và thấp nhất là ở ao cá khỏe số 4 ở mức tế bào lympho trung bình là (12,40±8,51 x 10 4 tế bào/ml), kết quả các tế bào lympho ở các ao cá khỏe (4,5 và 8) khác biệt so với các ao cá bệnh (3, 7, 9, 10 và 11) ở mức ý nghĩa P<0,05. e. Tiểu cầu Kết quả định lượng cho thấy, hai ao cá khỏe 4 và 5 khác biệt so với hai ao cá bệnh 7 và 9 (P <0,05) (Bảng 4.11). Ở ao cá khỏe có mật độ tế bào tiểu cầu thấp hơn so với mật độ tế bào tiểu cầu ở các ao cá có dấu hiệu bệnh lý. Nhìn chung, số lượng các loại tế bào bạch cầu ở những ao cá có dấu hiệu bệnh xuất huyết gia tăng so với những ao cá khỏe, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P <0,05). Tương tự như kết quả nghiên cứu của Martins et al. (2008) trên cá rô phi nhiễm vi khuẩn Enterococcus spp. đã tìm thấy số lượng của các loại tế bào bạch cầu như lympho, bạch cầu trung tính, bạch cầu dơn nhân và tiểu cầu đều cao hơn so với cá rô phi khỏe. Toida et al. (2003) cho rằng do sự tập trung nhanh chóng tế bào lympho ở những vùng bị viêm làm cho quá trình cung cấp bổ sung tế bào này ở vùng ngoại vi của máu bị giảm. Bạch cầu gia tăng số lượng trong 24 giờ và đại thực bào trong vòng 3 ngày và có vai trò quan trọng trong việc hình thành hàng rào bảo vệ chống lại các tác nhân cơ hội gây bệnh. Ngoài ra sự thay đổi số lượng bạch cầu trong máu cho thấy phần lớn đại thực bào ở những vùng bị viêm di chuyển từ mạch máu đến phản ứng với tác nhân gây bệnh mặc dù đại thực bào phân bố khắp cơ thể (Suzuki và Iida, 1992). 69 4.5 Phát triển qui trình chẩn đoán bệnh xuất huyết ở cá bống kèo bằng phƣơng pháp sinh học phân tử 4.5.1 Kết quả chiết tách DNA trực tiếp từ mô thận cá Kết quả chiết tách, đo hàm lượng DNA và độ tinh sạch DNA từ 16 mẫu thận cá cho thấy độ tinh sạch ở bước sóng 260 nm là 1,57 – 1,78 và hàm lượng DNA thận cá nằm trong khoảng 1.675 – 3385 ng/µl. 4.5.2 Kết quả chiết tách DNA vi khuẩn Kết quả chiết tách từ 49 chủng vi khuẩn phân lập có độ tinh sạch ở bước sóng 260 nm là 1,3 - 1,9 và hàm lượng DNA khoảng 2.500 – 5000 ng/µl. Từ kết quả chiết tách cho thấy hàm lượng DNA chiết tách từ vi khuẩn dao động từ 2.765 - 4.855 ng/µl và độ tinh sạch dao động từ 1,7 ng/µl đến 2 ng/µl. 4.5.3 Kết quả khảo sát cặp mồi cho qui trình PCR phát hiện Streptococcus dysgalactiae Sử dụng cặp mồi STRD-DyI/dys-16S–23S-2 đặc hiệu phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae dựa theo phương pháp của Hassan et al. (2003), đối chứng dương sử dụng trong phản ứng PCR phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae là vi khuẩn đã được giải mã định danh bằng phương pháp giải trình tự gen 16S là vi khuẩn có ký hiệu B2-5G. Kết quả điện di sản phẩm PCR dương tính, phát hiện S. dysgalactiae khi sử dụng cặp mồi STRD-DyI/dys-16S–23S-2 ở vị trí 259 bp thể hiện qua Hình 4.17. Hình 4.17 Kết quả điện di sản phẩm PCR phát hiện Streptococcus dysgalactiae bằng cặp mồi STRD-DyI/dys-16S–23S-2 (M): thang DNA; 1: B1-6T; (+): đối chứng dương (B2-5G); (-): đối chứng âm. Kết quả điện di cho thấy, sản phẩm PCR hiện vạch DNA đặc hiệu của vi khuẩn S. dysgalactiae ở vị trí 259 bp. Tương tự với kết quả nghiên cứu của Nomoto et al. (2004) khi sử dụng cặp mồi STRD-DyI/dys-16S–23S-2 theo phương pháp của Hassan et al. (2003) cũng đã phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae ở 259 bp là vi khuẩn gây bệnh trên cá trác sọc vàng (amberjack Seriola quinqueradiata, Seriola dumerili). 70 4.5.4 Kiểm tra tính đặc hiệu và độ nhạy của qui trình PCR phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae 4.5.4.1 Kiểm tra tính đặc hiệu của qui trình PCR phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae Kết quả kiểm tra tính đặc hiệu của qui trình PCR phát hiện S. dysgalactiae thể hiện qua Hình 4.18. Hình 4.18 Kết quả điện di sản phẩm PCR kiểm tra tính đặc hiệu của qui trình (M): thang DNA; (1): Vibrio parahaemolyticus; (2): Streptococcus dysgalactiae; (3): Edwardsiella ictaluri; (4): Aeromonas hydrophilla; (5): Streptococcus agalactiae; (6): Flavobacterium columnare. Kết quả điện di (Hình 4.18) cho thấy, qui trình khuếch đại chỉ hiện vạch đặc hiệu ở 259 bp của vi khuẩn S. dysgalactiae mà không hiện vạch sản phẩm đối với các chủng vi khuẩn khác. Điều này đã xác định được tính đặc hiệu của qui trình khi chỉ phát hiện được vi khuẩn S. dysgalactiae mà không phát hiện được các loài vi khuẩn khác khi sử dụng mồi STRD-DyI/dys-16S–23S-2. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Hassan et al. (2003) và Nomoto et al. (2004) khi sử dụng cặp mồi STRD-DyI/dys-16S–23S-2 đã phát hiện chính xác 100% S. dysgalactiae và qui trình cũng chỉ phát hiện được vi khuẩn S. dysgalactiae ở vạch 259 bp mà không hiện vạch sản phẩm đối với các chủng vi khuẩn khác. 4.5.4.2 Kiểm tra độ nhạy của qui trình PCR phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae Kết quả điện di cho thấy, độ nhạy của qui trình có thể phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae ở mật độ thấp nhất là 50 ng vi khuẩn và vạch AND xuất hiện rõ dần ở các mật độ cao thể hiện phản ứng ngày càng rõ hơn. Kết quả xác định độ nhạy của qui trình PCR phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae là 50 ng DNA vi khuẩn/0,5g mô thận (Hình 4.19). 71 Hình 4.19 Kết quả điện di sản phẩm PCR kiểm tra độ nhạy của qui trình (M): thang DNA; (1): 25 ng; (2): 50 ng; (3): 100 ng; (4): 200 ng; (5): 400 ng; (6): 800 ng; (7): 1.600 ng; (8): 3.200 ng. 4.5.5 Kiểm tra khả năng ứng dụng của qui trình PCR phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae 4.5.5.1 Kiểm tra khả năng ứng dụng của qui trình từ mẫu vi khuẩn Sử dụng cặp mồi STRD-DyI/dys-16S–23S-2 phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae dựa theo phương pháp của Hassan et al. (2003) để xác định ngẫu nhiên 10/250 chủng vi khuẩn còn lại bằng phương pháp PCR, kết quả cho thấy cả 10/10 chủng (100%) nhạy với cặp mồi STRD-DyI/ dys-16S–23S-2 ở 259 bp (Hình 4.20). Hình 4.20 Kết quả PCR 10 chủng vi khuẩn M: thang DNA; (+): đối chứng dương (B2-5G); (1): A1F1-T; (2): A2F3-G; (3): B3K1F2-T; (4): B1K2F1-G; (5): B3F2-T; (6): F7-T; (7): B1-10TT; (8): B5-8T; (9): B4-6G; (10): B5-3T; (-): đối chứng âm. Qua kết quả trên cho thấy cặp mồi STRD-DyI/dys-16S–23S-2 đã phát hiện chính xác vi khuẩn S. dysgalactiae gây bệnh xuất huyết trên cá bống kèo, khẳng định khả năng ứng dụng qui trình này trong thực tế. 4.5.5.2 Kiểm tra khả năng ứng dụng của qui trình từ mẫu thận cá bống kèo bệnh Tiến hành kiểm tra ứng dụng qui trình chẩn đoán trên 10 mẫu cá bống kèo có kí hiệu A1F1, A1F2, A1F4, A1F6, A1F9, A5F4, B1-6, B2-3, B2-5 và B6-9. Tất cả 10 mẫu này đều có dấu hiệu bệnh lý xuất huyết như xuất huyết ở các vây, xuất huyết ở gan, thận và tỳ tạng. Trên thận của 10 mẫu cá này đều 72 xuất hiện tình trạng xuất huyết, sung huyết các mao mạch và tĩnh mạch, ống thận xơ hóa, biến đổi cấu trúc và hoại tử. Kết quả điện di cho thấy, sản phẩm khuếch đại đặc hiệu cho vi khuẩn S. dysgalactiae có kích thước 259 bp không xuất hiện ở các mẫu DNA thận cá (Hình 4.21). Hình 4.21 Kết quả PCR từ mẫu thận cá bống kèo bệnh xuất huyết M: thang DNA; (-): đối chứng âm; (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9): mẫu thận cá; (+): đối chứng dương. Như vậy, qui trình PCR chẩn đoán S. dysgalactiae chưa thể ứng dụng để phát hiện trực tiếp loài vi khuẩn này trên mẫu cá bệnh. Trong một số kết quả nghiên cứu của Nomoto et al. (2004), Nomoto et al. (2008) và Abdelsalam et al. (2009) khi sử dụng phương pháp PCR phát hiện tác nhân vi khuẩn gây bệnh là S. dysgalactiae đều sử dụng trực tiếp DNA của vi khuẩn phân lập được, chưa có kết quả nào được đưa ra về khả năng phát hiện vi khuẩn này trực tiếp từ mẫu bệnh phẩm. Điều này có thể do trong quá trình chiết tách DNA mẫu thận cá, không định lượng được DNA vi khuẩn trong mẫu đủ để phát hiện vi khuẩn S. dysgalactiae. Tuy nhiên với kết quả đã xác định ở độ nhạy của qui trình, sản phẩm PCR sẽ hiện vạch sản phẩm trong kết quả điện di ở vị trí 259 bp khi hàm lượng vi khuẩn đạt 50 ng. 4.6 Phƣơng pháp điều trị bệnh xuất huyết trên cá bống kèo ở qui mô phòng thí nghiệm 4.6.1 Lập kháng sinh đồ và xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của thuốc kháng sinh lên vi khuẩn gây bệnh xuất huyết trên cá bống kèo 4.6.1.1 Kết quả kháng sinh đồ Phục hồi 4 chủng vi khuẩn B1-6T, B2-3TT, B2-5G, B6-9TT. Quan sát thấy cả 4 chủng vi khuẩn đều có cùng đặc điểm đồng nhất về hình dạng, là khuẩn lạc nhỏ tròn, trắng đục (Hình 4.22A) và hình cầu, Gram (+) (Hình 4.22B), không di động, âm tính với oxidase, catalase. 73 Hình 4.22 Kết quả tách ròng và nhuộm gram các chủng vi khuẩn sử dụng trong thí nghiệm kháng sinh đồ (A): Kết quả tách ròng vi khuẩn; (B): Kết quả nhuộm gram. Kết quả kháng sinh đồ của 4 chủng vi khuẩn với 12 loại kháng sinh được thể hiện qua Hình 4.23 và Bảng 4.12. Hình 4.23 Kết quả kháng sinh đồ với vi khuẩn S. dysgalactiae Các chủng vi khuẩn S. dysgalactiae trong thí nghiệm có tính nhạy cao đối với nhóm fenicol, nhóm tetracyclin (3/4 chủng), và giảm tính nhạy xuống đối với kháng sinh nhóm Aminoglycosides: Neomycin (2/4 chủng), Gentamycin (0 chủng). Bên cạnh đó nhóm Quinolone, thí nghiệm có sử dụng kháng sinh Norfloxacin để thử tính nhạy tuy nhiên, ở kháng sinh này cho kết quả thấp chỉ có 1/4 chủng nhạy với kháng sinh này. 74 Bảng 4.12 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ Kháng sinh Đường kính trung bình vòng vô trùng (mm) B1-6T B2-3TT B2-5G B6-9TT Neomycin (N, 30µg) S 17,5 17 I R 11,5 16 Florfenicol (FFC, 30µg) S 25,5 25,5 23,5 I R 12 Doxycycline (DO, 30µg) S 25,5 26 18 I 15,5 R Gentamicin (GM, 10µg) S I R 10,5 8,5 18 16 Cefazolin (CZ, 30µg) S I 17,5 17,5 23,5 13,5 R Ampicillin (AMP, 25µg) S I R 12,5 12 13 17 Amoxicillin (AML, 25µg) S I R 12 11 13,5 17 Tetracycline (TE, 30µg) S 25,5 26,5 24 I R 12 Trimethoprim + sulfamethoxazole (SXT,1.25/23.75µg) S 18 19 21 I R 11 Norfloxacin (NOR, 5µg) S 20,5 I 13 15,5 13 R Ciprofloxacin (CIP, 5µg) S 24,5 24 I 18 R 14 Enrofloxacin (ENR, 5µg) S 24 I 20 20 R 13,5 Ghi chú: S: Nhạy; I: trung bình; R: kháng Từ kết quả Bảng 4.12 cho thấy, 8/12 loại kháng sinh nhạy với 4 chủng vi khuẩn khảo sát, trong đó có 4 loại kháng sinh có tính nhạy cao gồm có FFC, DO, TE và SXT với tỷ lệ 75%. Tuy nhiên FFC, TE và SXT đều có tỷ lệ kháng là 25%, còn DO không có tỷ lệ kháng ở 4 chủng khảo sát. Tương tự với kết quả nghiên cứu của Wuming Yang và Aihua Li (2009) cho thấy vi khuẩn S. dysgalactiae được phân lập từ cá tầm Acipenser schrenckii có tính nhạy cao 75 với DO và chloramphenicol. Ngoài ra, kết quả khảo sát của Francis P. M et al. (2014) khi lập kháng sinh đồ đối với chủng S. iniae cho thấy FFC, DO, TE là những kháng sinh có độ nhạy cao với S. iniae. Bên cạnh đó, kháng sinh AML có tỷ lệ kháng cao, kháng với 3/4 chủng nghiên cứu chiếm tỷ lệ 75%. Theo kết quả khảo sát, do trong quá trình nuôi người dân có sử dụng kháng sinh AML định kỳ để phòng trị bệnh, đây có thể là nguyên nhân gây nên hiện tượng kháng AML ở vi khuẩn này. Điều này xảy ra tương tự kết quả của Phạm Thanh Hương và ctv. (2011) khi nghiên cứu sự kháng kháng sinh của vi khuẩn Edwardsiella ictaluri và Aeromonas hydrophila gây bệnh trên cá tra, kết quả cho thấy AML và AMP đã bị hai chủng vi khuẩn này kháng hoàn toàn. Ngoài ra, giữa các chủng vi khuẩn thí nghiệm còn xuất hiện hiện tượng đa kháng thuốc như: chủng B1-6T kháng với 3 loại kháng sinh đó là GM, AML và AMP; chủng kháng nhiều loại kháng sinh nhất là chủng B2-5G kháng 4 loại gồm FFC, SXT, AML và AMP. Hiện tượng kháng thuốc kháng sinh hay cụ thể là hiện tượng đa kháng thuốc hiện nay trong nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam nói riêng hay trên thế giới nói chung đã không còn xa lạ và rất phổ biến trong hiện tại. Qua kết quả kháng sinh đồ trên cho thấy, việc kháng thuốc của vi khuẩn trong nuôi trồng thủy sản là một vấn đề cần phải quan tâm. Bởi cùng một loại kháng sinh nhưng lại cho kết quả kháng sinh đồ khác nhau rất nhiều trong cùng một loài cũng như trong các nghiên cứu với nhau. Sự khác biệt trên có thể do phương thức và mức độ sử dụng thuốc trong quá trình nuôi của người dân giữa các vùng là khác nhau. Việc kháng thuốc của vi khuẩn là do người nuôi sử dụng thuốc không đúng qui tắc sử dụng thuốc an toàn và chưa hiểu hết những tác hại của việc phối hợp thuốc không đúng cách trong điều trị. FFC là kháng sinh thuộc nhóm fenicol, có phổ kháng khuẩn rộng, là kháng sinh được dùng để đặc trị bệnh gan thận mủ trong nhiều năm qua, theo những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ kháng FFC của vi khuẩn gây bệnh gan thận mủ là 73% (Phạm Thanh Hương và ctv., 2011). Theo Keyes et al. (2000), thì FFC được ứng dụng rộng rãi trong ngành thú y và trong nuôi trồng thủy sản ở châu Á từ những thập niên 1980. Sự gia tăng tính kháng trên kháng sinh nhóm Fenicol là do vi khuẩn đề kháng thông qua nhiều cơ chế khác nhau như: đào thải thuốc kháng sinh ra khỏi tế bào thông qua kênh protein (efflux protein) có trên thành tế bào vi khuẩn (Cloeckaert et al., 2000); mã hóa gen liên qua đến integron và thông qua plasmid (Keys et al., 2000). 76 Đối với nhóm tetracycline, vi khuẩn kháng với TE chủ yếu qua hai cơ chế: qua các protein bảo vệ ribosome (RPPs-ribosomal protection proteins) và hệ thống bơm thải tetracyclin phụ thuộc năng lượng (energy-dependent efflux pumps) (Roberts, 1996). Hai cơ chế khác cũng được phát hiện là bất hoạt kháng sinh bởi enzyme (Yang et al., 2004) và thay đổi vị trí đích (target site) tác dụng của kháng sinh bằng đột biến vùng 16S rRNA (Ross et al., 1998). DO là kháng sinh thuộc thế hệ mới nhất của nhóm Tetracyclin. Kết quả nghiên cứu này cho thấy 3/4 các chủng vi khuẩn Streptococcus sp. nhạy với kháng sinh DO. Sự tác động mạnh mẽ và tiêu diệt vi khuẩn của nhóm kháng sinh này vẫn còn rất cao. Theo Bùi Kim Tùng (2001), TE là nhóm kháng sinh thường dùng để trị các bệnh hô hấp ở người, brucella, mycolasma. Với kết quả trên có thể sử dụng FFC, DO, TE để trị bệnh xuất huyết trên cá bống kèo nhưng chỉ nên sử dụng khi thật cần thiết để hạn chế tình trạng kháng thuốc và điều đáng lưu ý cho các nhà quản lý cũng như người nuôi vì đây là những kháng sinh được khuyến cáo là hạn chế sử dụng theo Thông tư số 15/2009/TT-BNN ngày 17 tháng 3 năm 2009 của Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2014), nên trong quá trình sử dụng cần được quản lý chặt chẽ và ngừng sử dụng trước khi thu hoạch để tránh tình trạng tồn dư kháng sinh trong sản phẩm. 4.6.1.2 Kết quả xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) Qua kết quả kháng sinh đồ chọn ra 02 loại kháng sinh mà vi khuẩn mẫn cảm gồm FFC, DO và 01 loại kháng sinh có tỷ lệ kháng cao là AML để xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của kháng sinh với 4 chủng vi khuẩn B1- 6T, B2-3TT, B2-5G, B6-9TT. Xác định MIC đối với các chủng vi khuẩn trên để tìm ra nồng độ thấp nhất mà kháng sinh có hiệu lực ức chế sự phát triển của vi khuẩn. Từ đây giúp cho việc sử dụng thuốc với liều lượng thấp nhất nhưng vẫn có hiệu quả, hạn chế khả năng kháng thuốc của vi khuẩn. Trong 4 chủng, có 2 chủng B1-6T và B6-9TT thể hiện tính kháng mạnh với AML (256 ppm). Riêng B1-6T kháng với FFC (4 ppm), DO với nồng độ (4 ppm) đã ức chế được vi khuẩn nhưng với chủng B6-9TT DO phải ở nồng độ (8 ppm) mới ức chế được, cho thấy chủng B6-9TT có xu hướng kháng với kháng sinh DO. Kết quả MIC được trình bày ở Bảng 4.13. 77 Bảng 4.13 Kết quả MIC của 4 dòng vi khuẩn S.dysgalactiae trên 3 loại kháng sinh FFC, DO và AML Vi khuẩn Kháng sinh Kết quả MIC (ppm) Điểm tới hạn CLSI, 2012 (M100-S22) B1.6T B6.9TT B2.5G B2.3TT S R AML 256 256 128 128 ≤ 8 ≥ 32 FFC 4 4 4 4 ≤ 2 ≥ 8 DO 4 8 4 4 ≤ 4 ≥ 16 Ghi chú: S: Nhạy; I: trung bình; R: kháng Kết quả cho thấy nồng độ ức chế tối thiểu của AML cao nhất và dao động từ 128 ppm - 256 ppm. Kế đó là DO có nồng độ thấp hơn (4 ppm - 8 ppm) và cuối cùng là FFC có nồng độ thấp nhất (4 ppm) tương ứng khả năng kháng khuẩn của FFC mạnh nhất trong 3 loại kháng sinh và yếu nhất là AML. So sánh với kết quả nghiên cứu của Ellen Portis et al. (2012) cho thấy, MIC của kháng sinh FFC đối với vi khuẩn Streptococcus spp. là 8 ppm cao hơn so với nghiên cứu (4 ppm) và nghiên cứu của Aoki T. et al. (1983) thì MIC của DO là 2 ppm thấp hơn so với kết quả nghiên cứu (4 – 8 ppm), qua so sánh trên cho
File đính kèm:
luan_an_xac_dinh_tac_nhan_vi_khuan_gay_benh_xuat_huyet_tren.pdf
Thongtinluanan-en.doc
Thongtinluanan-vi.doc
Tomtatluanan-en.pdf
Tomtatluanan-vi.pdf