Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 1

Trang 1

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 2

Trang 2

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 3

Trang 3

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 4

Trang 4

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 5

Trang 5

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 6

Trang 6

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 7

Trang 7

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 8

Trang 8

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 9

Trang 9

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 39 trang nguyenduy 22/08/2024 310
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam

Tóm tắt Luận án Đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam
ết của Maslow để 
phân chia cấu trúc các nhóm không gian chức năng, diễn đạt mức độ 
quan trọng và cần thiết theo cấp độ phát triển, xây dựng nên mô hình 
“Tháp công năng” trong KTNO đô thị (lập luận 4) – [Hình 2.7]. 
Kết hợp 4 lập luận trên cho thấy giữa giá trị VHTT, công năng 
nhà ở và nhu cầu con người có cùng chung tính phân cấp mà nguồn 
gốc phát sinh là từ con người; như vậy giữa chúng có mối liên hệ 
tương ứng với nhau, có thể thiết lập cùng một mô hình cấu trúc, diễn 
đạt trình tự từ thấp đến cao. Tại đây hội đủ cơ sở để suy luận trong 
kiến trúc nhà ở đô thị sẽ diễn ra chu trình phát triển có tính quy luật là: 
nhu cầu nào thì công năng đó và văn hóa tương ứng. Đây là lập 
luận quan trọng cho việc xây dựng mô hình khai thác giá trị VHTT 
trong Chương III. 
11 
2.3. Mối quan hệ giữa giá trị văn hóa truyền thống với hình thức 
kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam 
Tiếp cận quan điểm Mỹ học và Mỹ học kiến trúc cho thấy hình 
thức kiến trúc nhà ở truyền thống là đối tượng thẩm mỹ thể hiện sự 
thống nhất giữa quy luật tạo hình khách quan và hàm nghĩa chủ quan 
của con người; vì vậy có khả năng đóng góp cho hình thức kiến trúc 
nhà ở đô thị Việt Nam hiện nay 3 vai trò: xây dựng quy luật thẩm mỹ 
truyền thống, chuyển tải hình thái ý thức của người Việt, xây dựng 
nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống [hình 2.10]. Những vai trò này giúp 
định hướng chuyển đổi giá trị thẩm mỹ truyền thống mà vẫn phát huy 
ưu thế của thời đại bằng công nghệ và sự sáng tạo. 
 Tiếp cận quan điểm Ký hiệu học nhận diện 3 cơ chế chuyển 
đổi giá trị thẩm mỹ truyền thống trong KTNO đô thị Việt Nam hiện 
nay là: chuyển đổi nguyên gốc, chuyển đổi một phần, chuyển đổi 
tương ứng [hình 2.16]. Trong đó chuyển đổi tương ứng có khả năng 
khai thác ưu thế của công nghệ và sự sáng tạo, đồng thời vẫn kế thừa 
giá trị VHTT bằng các nguyên tắc và quy luật thẩm mỹ. Đây là quá 
trình cài mã và giải mã có chọn lọc, cũng là mục tiêu nghiên cứu của 
luận án. 
Bằng mô hình tương tác giữa giá trị VHTT với yếu tố hình thức 
kiến trúc nhà ở đô thị chọn lọc được các đối tượng cần thiết để xây 
dựng mô hình khai thác. Đó là những yếu tố thuộc nhóm quan trọng 
(kết cấu bao che đặc thù, cửa, mái, hiên/logia) và 9 đặc tính thẩm mỹ 
truyền thống (hình thức thông gió tự nhiên, che nắng, tạo bóng râm, 
vật liệu tự nhiên, tính đối xứng/cân bằng, tỷ lệ hài hòa, tính hình học, 
tính cơ động, tính vần điệu). 
12 
CHƯƠNG III 
MÔ HÌNH GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRONG 
KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI CÁC ĐÔ THỊ LỚN VIỆT NAM 
3.1 Khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố công 
năng 
Vận dụng lý thuyết của Maslow để chia cấu trúc công năng theo 
3 cấp độ (cơ bản – mở rộng – phát triển), diễn đạt tiến trình gia tăng 
khả năng đáp ứng nhu cầu con người trong không gian nhà ở [hình 
3.2]. 
Hình 3.2 : Mô hình “Tháp Công Năng” theo 3 cấp độ nhu cầu 
Cùng với tiến trình đó, giá trị VHTT cũng được phân chia thành 
3 nhóm tương ứng để tham dự, thể hiện quy luật phát triển đồng dạng 
giữa văn hóa và công năng (văn hóa tương ứng công năng). Bằng 
phép cộng, quy chiếu và biện luận mối quan hệ giữa thang giá trị văn 
hóa theo tương tác nội ngoại hệ và theo nhu cầu có thể xây dựng mô 
hình tổng hợp giá trị VHTT trong yếu tố công năng (mô hình lý 
thuyết) – [hình 3.3]. Phối hợp mô hình này với mô hình Tháp công 
năng (đã cấu trúc lại theo 3 cấp độ nhu cầu) đưa đến mô hình ứng 
13 
dụng giá trị VHTT trong công năng nhà ở đô thị [hình 3.5]. Thông 
qua mô hình ứng dụng, cấu trúc không gian nhà ở sẽ chọn lọc các 
nhóm văn hóa để tham dự và phát huy (công năng chuyển tải văn 
hóa). Như vậy, khai thác VHTT trong yếu tố công năng là quá trình 
chọn lọc giá trị tương ứng với các cấp độ nhu cầu không gian ở. 
Từng giá trị VHTT có sự chuyển đổi theo 3 cấp nhu cầu không 
gian khác nhau. Trong cấp nhu cầu cơ bản, không gian nhà ở có 2 
nhóm chức năng chính là nghỉ ngơi thụ động và làm việc, chỉ có 2 giá 
trị văn hóa tham dự là tính dung hòa với tự nhiên và tính linh hoạt/đa 
năng (tiền cấp). Những giá trị này mang tính phổ quát, thể hiện 
phương thức tổ chức nhà ở để phù hợp với điều kiện diện tích nhỏ (tất 
cả chức năng sử dụng chung), hướng tới sự cân bằng với môi trường 
tự nhiên một cách thụ động. Tiến đến cấp nhu cầu mở rộng, công 
năng nhà ở được cấu trúc bởi 4 nhóm chức năng chính thức là nghỉ 
ngơi thụ động, làm việc, giáo dục, giao tiếp đối ngoại; đi kèm với sự 
định hình không gian sinh hoạt cá nhân. Trong điều kiện này, cả 5 giá 
trị VHTT hội đủ khả năng tham dự và chi phối là tính dung hòa với tự 
nhiên, tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp), tính cộng đồng, truyền thống 
gia đình Việt, tính tư hữu. Đạt cấp nhu cầu phát triển, nhà ở xuất hiện 
đầy đủ 5 nhóm chức năng, xác lập sự tồn tại chính thức của không 
gian nghỉ ngơi năng động với các tiện nghi sinh hoạt cao cấp, kéo dài 
từ không gian sử dụng chung cho đến không gian sử dụng riêng. 
Trong cấp nhu cầu này có sự tác động của 5 giá trị VHTT là tính dung 
hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng (nâng cao), tính cộng đồng, 
truyền thống gia đình Việt, tính tư hữu. Thông qua phân tích sự can 
thiệp của văn hóa với không gian nhà ở cho thấy: mức độ phát triển 
công năng càng cao thì càng mở rộng phạm vi để giá trị VHTT được 
khai thác. Trong đó, tính dung hòa với tự nhiên và tính linh hoạt/đa 
14 
năng đạt mức tương tác lớn nhất theo quá trình chuyển đổi; tính tư 
hữu có xu hướng gia tăng cùng với sự hình thành các không gian cá 
nhân; tính cộng đồng mở rộng sự tham dự vào không gian sinh hoạt 
nội bộ và truyền thống gia đình Việt triển khai vùng hoạt động theo 
các nhóm chức năng, gắn kết với hoạt động phát triển thể chất và tinh 
thần. 
3.2 Khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố hình 
thức 
Mô hình khai thác giá trị thẩm mỹ truyền thống trong hình thức 
KTNO đô thị được xây dựng dựa trên sự tương tác giữa 9 giá trị thẩm 
mỹ (xác định trong Chương II) với các thành phần tạo hình của nhà ở. 
Thông qua đánh giá và so sánh chỉ số tương tác chọn ra được 2 nhóm 
đối tượng có khả năng đem lại hiệu quả khai thác cao. Đó là: đối 
tượng văn hóa – nhóm văn hóa tiêu biểu (tính hình học, tính đối 
xứng, tính vần điệu và tỷ lệ hài hòa) và đối tượng tạo hình – nhóm 
cấu tạo quan trọng (mái, kết cấu bao che, cửa, hiên/logia). Ngoài ra, 
đây còn được xem là mô hình khai thác lý tưởng [hình 3.14] vì đã 
xác định đầy đủ các khả năng can thiệp của giá trị thẩm mỹ truyền 
thống trong từng yếu tố cấu tạo; từ đó có thể làm cơ sở để thẩm định 
lại những công trình xây dựng thực tế về mức độ khai thác VHTT. Giá 
trị thẩm mỹ được chọn là những quy luật tạo hình có tính khách quan, 
liên hệ đến việc xác lập các nguyên tắc thẩm mỹ chủ quan và dẫn 
nghĩa đến giá trị VHTT, thể hiện nội dung tư tưởng và tinh thần của 
người Việt. Thông qua phép cộng chỉ số tương tác của các giá trị đó 
làm xuất hiện trật tự nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống trong KTNO 
đô thị [hình 3.18]. Như vậy, sự kết hợp giữa 3 yếu tố (giá trị thẩm 
mỹ, nguyên tắc thẩm mỹ, giá trị VHTT) tạo nên khung lý thuyết có 
15 
tính phân cấp để định hướng cho việc khai thác; thể hiện sự tương 
đồng với tính phân cấp của thang giá trị VHTT và lý thuyết nhu cầu 
. 
Hình 3.18: Quy trình chuyển đổi và nhận diện giá trị thẩm mỹ truyền 
thống trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam 
Ngoài ra, căn cứ vào mô hình còn có thể phân chia nhiều cấp độ 
khai thác khác nhau, đại diện bởi các chỉ số phân cấp (có được thông 
qua đánh giá chỉ số tương tác). Luận án chọn cách phân chia 2 cấp độ 
để phân tích và xác lập 2 nhóm khai thác là nhóm giới hạn và nhóm 
đặc thù - đối tượng khai thác chính. Phân tích sự kết hợp giữa các 
yếu tố tạo hình trong nhóm đặc thù đưa đến 7 trạng thái khai thác 
[hình 3.19] và cũng là mục tiêu ứng dụng mô hình thác VHTT trong 
hình thức KTNO đô thị. 
3.3 Xu hướng chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong 
kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam 
Trong những giai đoạn tiếp theo, giá trị VHTT sẽ tiếp tục 
16 
chuyển đổi như một quy luật tất yếu của quá trình phát triển. Sự biến 
đổi năng động của các yếu tố có tính thời đại tác động liên tục đến hệ 
giá trị VHTT làm cho nó có xu hướng thay đổi để thiết lập nên những 
hệ giá trị VHTT mới. Trong nội dung phân tích của luận án cho thấy 
mối quan hệ giữa giá trị VHTT với KTNO đô thị Việt Nam đặc trưng 
bởi tính phân cấp, tác động lên cả công năng và hình thức. Trong mỗi 
phương diện đó, VHTT thể hiện mức độ can thiệp thông qua trật tự 
phân cấp của các thang giá trị. Như vậy, bằng sự tương tác với các yếu 
tố thời đại mới, xu hướng chuyển đổi giá trị VHTT cũng là xu hướng 
chuyển đổi các thang giá trị. 
Với công năng, sự phát triển cấu trúc không gian nhà ở là điều 
kiện để văn hóa được tham dự, diễn biến theo tính chất của nhu cầu. 
Dựa trên quan điểm Maslow và quan điểm phát triển kiến trúc thế giới 
cho thấy: tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính tư 
hữu sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ; tính cộng đồng, truyền thống gia 
đình Việt tùy biến theo lối sống của từng đối tượng [hình 3.20]. Nhìn 
chung, thang giá trị VHTT có xu hướng phân lập thành 2 thang giá trị: 
nhu cầu cơ bản và mở rộng vận dụng chung thang giá trị VHTT cơ 
bản; nhu cầu phát triển vận dụng thang giá trị VHTT nâng cao. 
Trong yếu tố hình thức, do có sự can thiệp của công nghệ và sự 
sáng tạo nên trật tự nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống cũng mang xu 
hướng thay đổi. Đó là sự phát triển tăng lên của nguyên tắc đẹp hài 
hòa với tự nhiên, đẹp đa dạng, và sự suy giảm của đẹp thành tố. Tuy 
nhiên cả 3 nguyên tắc này đều dẫn đầu trong hệ thống nguyên tắc 
thẩm mỹ, tương đồng với quan điểm chung của thế giới. Sự đảo chiều 
của các nguyên tắc thẩm mỹ làm thay đổi trật tự giá trị VHTT và tạo 
ra thang giá trị VHTT mới trong hình thức KTNO tại các đô thị lớn 
Việt Nam [hình 3.21] 
17 
3.4 Luận bàn về đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống 
trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam 
Tổng hợp nội dung nghiên cứu của luận án cho thấy có 5 đặc 
trưng khai thác VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam sau 
đây: 
 Khai thác văn hóa truyền thống theo quan điểm hệ giá trị: 
tiếp cận hệ giá trị cho phép đánh giá một cách tổng quát tiềm lực và 
xu thế tham dự của VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam. 
 Khai thác văn hóa truyền thống có tính quy luật: trên 
phương diện công năng là quy luật phát triển đồng dạng; trên phương 
diện hình thức là quy luật trật tự của nguyên tắc thẩm mỹ truyền 
thống. 
 Khai thác văn hóa truyền thống có thể định lượng: triển 
khai theo chỉ số tương tác giữa các giá trị VHTT với nhau và với các 
thành phần (công năng và hình thức) của KTNO. 
 Khai thác văn hóa truyền thống mang 2 thuộc tính chủ 
động và thụ động: thụ động chọn lựa các nhóm văn hóa để tương ứng 
với công năng; thụ động vận dụng các quy luật và nguyên tắc thẩm 
mỹ truyền thống sau khi đã xác định vai trò của vật liệu và kỹ thuật 
hiện đại, tính sáng tạo cá nhân. Chủ động chọn lọc giá trị tiêu biểu và 
thang giá trị để ứng dụng nhằm tăng cường tính dân tộc trên cả 2 
phương diện công năng và hình thức 
 Khai thác văn hóa truyền thống trên cơ sở tham chiếu quan 
điểm phát triển kiến trúc nhà ở thế giới: làm cho quá trình khai thác 
tránh những sai lệch do định kiến chủ quan – nguyên nhân dẫn đến sự 
tụt hậu của KTNO Việt Nam so với thế giới. 
18 
PHẦN KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ 
1. Giá trị VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam 
hiện nay được chuyển đổi theo 2 giai đoạn: từ nông thôn lên đô thị 
truyền thống và từ đô thị truyền thống đến đô thị hiện đại. Trong 
những giai đoạn chuyển đổi này, giá trị văn hóa đã thể hiện sự biến 
đổi mức độ can thiệp lên các thành phần của KTNO theo chiều hướng 
gia tăng hoặc suy thoái. Điều đó thể hiện tính kế thừa phát triển hoặc 
đào thải văn hóa theo sự chuyển đổi mô hình nhà ở qua các thời kỳ. 
Từ việc truy xuất các định nghĩa cho thấy VHTT là hệ thống có cấu 
trúc 2 bậc (hiển thị và phi hiển thị), liên tục tương tác với nhau và với 
các hệ thống bên ngoài trong suốt quá trình chuyển đổi để phù hợp với 
điều kiện tồn tại mới. Đây là cơ sở giải thích cơ chế đào thải nói trên 
và là cũng là nền tảng lý thuyết cho việc nhận diện ảnh hưởng VHTT 
trong KTNO đô thị Việt Nam – đối tượng nghiên cứu của luận án. 
2. Đặc điểm quan trọng của hệ giá trị VHTT là tính phân cấp, 
hiển thị bằng các thang giá trị. Trật tự các thang giá trị này được thiết 
lập thông qua mối quan hệ nội sinh (giữa các giá trị VHTT với nhau) 
và ngoại sinh (giữa giá trị VHTT với các thành phần kiến trúc). 
Thang giá trị đầu tiên được hình thành từ nhà ở nông thôn; tuy nhiên 
khi chuyển đổi lên đô thị truyền thống, các điều kiện ban đầu của nhà 
ở thay đổi đã làm biến động thang giá trị văn hóa lần thứ nhất, từ đó 
nhận thấy sự suy yếu của một số giá trị và “sức bền” của một số giá trị 
khác. Trong giai đoạn chuyển đổi tiếp theo từ đô thị truyền thống đến 
đô thị hiện đại, những điều kiện tác động lên KTNO gia tăng mạnh mẽ 
làm thay đổi trật tự thang giá trị VHTT lần thứ hai. Các loại hình nhà 
ở phát triển nhanh chóng đã phá vỡ đặc điểm đơn giản thuần túy của 
19 
nhà ở truyền thống để hình thành nên những không gian sinh hoạt mới 
và hình thức thẩm mỹ mới. Giai đoạn này đánh dấu nhiều sự loại bỏ 
giá trị truyền thống cũ, đặc biệt trên phương diện tạo hình. Tuy nhiên, 
do VHTT còn có sức ảnh hưởng trong cộng đồng người Việt tại các 
đô thị nên vẫn tiếp tục được duy trì. Thông qua phân tích sự biểu hiện 
của loại hình nhà phố, biệt thự và chung cư cho thấy có 6 giá trị tập 
hợp thành thang/hệ giá trị VHTT gồm: tính dung hòa với tự nhiên, 
tính linh hoạt/đa năng, tính tư hữu, tính cộng đồng, truyền thống gia 
đình Việt, tính biểu hình. Đây là những giá trị đã được chọn lọc trong 
quá trình chuyển đổi và còn phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay. 
Để hướng đến mục tiêu kế thừa và phát huy giá trị VHTT trong 
KTNO đô thị Việt Nam thì những giá trị trên cần tiếp tục được khai 
thác. Luận án triển khai mục tiêu này theo 4 cơ sở tiếp cận (lý thuyết 
hệ thống, lý thuyết nhu cầu, ký hiệu học, mỹ học và mỹ học kiến trúc); 
kết hợp tham chiếu quan điểm phát triển kiến trúc thế giới của 11 
học thuyết và 12 tác giả đạt giải Pritzker trong những năm gần đây. 
3. Trên phương diện công năng, tiếp cận lý thuyết hệ thống 
cho phép xác lập quan hệ giữa các giá trị bằng 2 hình thức tương tác 
nội hệ và ngoại hệ. Trong đó, tương tác nội hệ (giữa các giá trị văn 
hóa với nhau) đem đến kết quả đề xuất thang giá trị VHTT theo phân 
tích định tính và định lượng. Tương tác ngoại hệ triển khai giữa các 
thành phần không gian nhà ở với giá trị văn hóa đem đến thang giá trị 
VHTT trên phương diện công năng. Hai thang giá trị này là kết quả 
biện chứng các mối quan hệ nên còn mang tính chủ quan của nghiên 
cứu. Vì vậy, luận án vận dụng lý thuyết phân cấp nhu cầu của Maslow 
để quy chiếu trật tự các giá trị theo mức độ quan trọng và cần thiết, 
chuyển dần từ mức cơ bản cho đến phát triển, từ đó xây dựng thang 
20 
giá trị VHTT theo nhu cầu con người – “Tháp giá trị VHTT”. Sử 
dụng phép cộng 3 thang giá trị trên đây đưa đến mô hình tổng hợp giá 
trị VHTT trong yếu tố công năng (mô hình lý thuyết). Ngoài ra, do 
văn hóa và công năng đều xuất phát từ nhu cầu con người nên cấu trúc 
không gian cũng được chia theo 3 cấp, hình thành mô hình “Tháp 
công năng”. Phối hợp 2 mô hình nói trên tạo ra mô hình ứng dụng, 
diễn đạt quá trình khai thác VHTT tùy thuộc vào tính chất phát triển 
không gian nhà ở (văn hóa tương ứng công năng). 
4. Quy chiếu sự tương quan giữa công năng và văn hóa cho 
thấy tính chất tác động của giá trị văn hóa gia tăng và mở rộng theo 
các cấp độ nhu cầu không gian. Trong cấp nhu cầu cơ bản, không 
gian nhà ở có 2 nhóm chức năng chính là nghỉ ngơi thụ động và làm 
việc nên chỉ có 2 giá trị văn hóa tham dự là tính dung hòa với tự nhiên 
và tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp). Tiến đến cấp nhu cầu mở rộng, 
công năng nhà ở được cấu trúc bởi 4 nhóm chức năng chính thức là 
nghỉ ngơi thụ động, làm việc, giáo dục, giao tiếp đối ngoại; đi kèm 
với sự định hình không gian sinh hoạt cá nhân. Trong điều kiện này, 
cả 5 giá trị VHTT hội đủ khả năng tham dự và chi phối là tính dung 
hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp), tính cộng đồng, 
truyền thống gia đình Việt, tính tư hữu. Đạt cấp nhu cầu phát triển, 
nhà ở xuất hiện đầy đủ 5 nhóm chức năng, xác lập sự tồn tại chính 
thức của không gian nghỉ ngơi năng động với các tiện nghi sinh hoạt 
cao cấp, kéo dài từ không gian sử dụng chung cho đến không gian sử 
dụng riêng. Trong cấp nhu cầu này có sự tác động của 5 giá trị VHTT 
là tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng (nâng cao), tính 
cộng đồng, truyền thống gia đình Việt, tính tư hữu. Thông qua phân 
tích sự can thiệp của văn hóa với không gian nhà ở cho thấy: mức độ 
21 
phát triển công năng càng cao thì càng mở rộng phạm vi để giá trị 
VHTT được khai thác. 
5. Tham chiếu quan điểm phát triển kiến trúc và KTNO trên 
thế giới cho thấy giá trị VHTT được chia thành 2 nhóm gồm: nhóm 
theo xu hướng chung (tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa 
năng, tính tư hữu) và nhóm theo xu hướng riêng – đặc thù của văn 
hóa Việt Nam (tính cộng đồng, truyền thống gia đình Việt). Bằng cách 
phân lập này suy ra nhóm xu hướng chung sẽ tiếp tục phát triển trong 
tương lai; nhóm xu hướng riêng là điều kiện để khai thác và nhận diện 
tính truyền thống, gia tăng sự can thiệp của các đặc tính này đồng 
nghĩa với việc kế thừa và phát triển VHTT trong không gian nhà ở tại 
các đô thị lớn Việt Nam. 
Với hai xu hướng phát triển trên, cấp nhu cầu cơ bản và mở 
rộng có khả năng ứng dụng thang giá trị VHTT cơ bản; cấp nhu cầu 
phát triển ứng dụng thang giá trị VHTT nâng cao. Như vậy những 
giai đoạn phát triển tiếp theo, thang giá trị VHTT trong công năng nhà 
ở có xu hướng phân chia thành 2 thang giá trị khác nhau, thể hiện 
sự biến đổi của VHTT để phù hợp với điều kiện tồn tại mới. 
6. Trên phương diện hình thức, tiếp cận lý thuyết hệ thống 
để xây dựng mô hình tương tác giữa giá trị thẩm mỹ truyền thống với 
các thành phần cấu tạo (mái, kết cấu bao che, cửa, khung cột, nền 
nhà) đưa đến việc chọn lọc 9 giá trị thẩm mỹ đặc trưng là tính hình 
học, tính đối xứng, tính vần điệu, tỷ lệ hài hòa, tính cơ động, vật liệu 
tự nhiên, giải pháp che nắng, thông gió, tạo bóng râm. Ngoài ra, từ 
phương pháp tiếp cận Mỹ học và Mỹ học kiến trúc nhận thấy VHTT 
có thể đóng góp cho hình thức KTNO đô thị 3 vai trò: xây dựng quy 
22 
luật thẩm mỹ truyền thống, chuyển tải hình thái ý thức của người 
Việt, xây dựng nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống. Giữa quy luật thẩm 
mỹ - nguyên tắc thẩm mỹ - hình thái ý thức có mối quan hệ tương 
sinh; hình thành nên trật tự phân cấp của nguyên tắc thẩm mỹ, tương 
ứng với trật tự phân cấp giá trị VHTT. Như vậy, sự kế thừa VHTT 
trong hình thức KTNO đô thị là sự chuyển đổi các quy luật thẩm mỹ, 
nguyên tắc thẩm mỹ (dẫn nghĩa đến VHTT) và cả hệ thống trật tự 
phân cấp của những yếu tố này. Đây là phương thức chuyển đổi phù 
hợp với điều kiện phát triển hiện nay; vừa phát huy vai trò của công 
nghệ - sáng tạo, vừa tránh được tình trạng sao chép các hình thức nhà 
ở đã cũ. 
Bằng phương pháp tiếp cận Ký hiệu học cho thấy giá trị thẩm 
mỹ truyền thống có thể chuyển đổi trong hình thức KTNO đô thị theo 
3 cơ chế: chuyển đổi nguyên gốc, chuyển đổi một phần, chuyển đổi 
tương ứng (chuyển đổi các quy luật, nguyên tắc thẩm mỹ). Trong đó, 
cơ chế chuyển đổi tương ứng chứng minh nhiều khả năng để khai 
thác, vừa duy trì đặc trưng truyền thống có tính chi phối “ẩn danh”, 
vừa phát huy những tiến bộ công nghệ và sáng tạo trên phương diện 
biểu thị. 
7. Mô hình khai thác giá trị VHTT trong hình thức KTNO đô 
thị được xây dựng dựa trên sự tương tác giữa giá trị thẩm mỹ được 
chọn với các yếu tố tạo hình; thông qua đó xác lập 7 trạng thái khai 
thác, thể hiện khả năng phối hợp cần

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_dac_trung_khai_thac_van_hoa_truyen_thong_tro.pdf