Tóm tắt Luận án Nghiên cứu đánh giá dư lượng một số chất kháng sinh trong nước và động vật thủy sinh trong một số hồ Hà Nội

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Nghiên cứu đánh giá dư lượng một số chất kháng sinh trong nước và động vật thủy sinh trong một số hồ Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu đánh giá dư lượng một số chất kháng sinh trong nước và động vật thủy sinh trong một số hồ Hà Nội

toàn diện về mức độ ô nhiễm kháng sinh trong 5 hồ của Hà Nội, nghiên cứu đã tiến hành lấy mẫu ở cả ba môi trường để xác định nồng độ kháng sinh. Từ các kết quả phân tích kháng sinh ở các vị trí khác nhau trong hồ và ở thời gian lấy mẫu khác nhau, kết hợp với các số liệu về thời tiết (nhiệt độ, lượng mưa trung bình trong tháng), kết quả khảo sát về tình hình nuôi cá ở các hồ đưa ra các kết luận về nguyên nhân gây ô nhiễm kháng sinh trong hồ, quy luật phân bố kháng sinh theo không gian và thời gian. 2.5. Đánh giá sự nguy hại của kháng sinh Đánh giá khả năng tích tụ của kháng sinh trong trầm tích thông qua hệ số hấp phụ Kd. Đánh giá khả năng tích lũy kháng sinh trong động vật thủy sinh thông qua hệ số tích lũy sinh học (BAF). Đánh giá ảnh hưởng của kháng sinh tới quần thể sinh vật trong nước và trầm tích thông qua nồng độ gây ảnh hưởng trung bình EC50 và thương số nguy hại HQ. CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Tối ưu hóa quy trình phân tích kháng sinh SAs, TRI, QNs trong nước, trầm tích và cá 3.1.1. Khảo sát pha động sử dụng cho LC/MS/MS Thành phần các chất, loại dung môi sử dụng trong pha động sẽ ảnh hưởng tới khả năng phân tách, hình dạng của pic và tín hiệu phát hiện kháng sinh. Kết quả khảo sát đã lựa chọn được dung môi pha động là axit focmic 0,2% v/v (pha động A), axetonitrit (pha động B) với chế độ chạy pha động là: 10% B trong 4 phút, tăng từ 10% lên 90% B trong 3 phút, 90% trong 2 phút, giảm tử 90% xuống 10% trong 4 phút, giữ ổn định 10% trong 5 phút, vậy tổng thời gian phân tích một mẫu là 18 phút. 3.1.2. Quy trình xử lý mẫu nước hồ xác định đồng thời các kháng sinh Kết quả khảo sát đã xác định được các điều kiện tối ưu cho quá trình chiết mẫu: 7 - Thể tích mẫu chiết: 500mL. - Môi trường pH của mẫu trước khi chiết kháng sinh: 3,5 - 4. Kết quả thẩm định phương pháp: - Khoảng tuyết tính của đường chuẩn từ 0,5 – 200 ng/L tùy từng kháng sinh, R 2 >0,99. - Độ thu hồi từ 67,2 – 91,2%; RSD từ 2,1 – 12,3%; MDL từ 0,16 – 1,14 ng/L; MQL từ 0,48 – 3,45 ng/L. Hình 3.6. Sơ đồ phân tích đồng thời kháng sinh trong nước hồ Hình 3.10. Sơ đồ phân tích đồng thờikháng sinh trong trầm tích Hình 3.12. Sơ đồ phân tích đồng thời kháng sinh trong cá Quy trình phân tích kháng sinh trong nước được thể hiện trong hình 3.6. 3.1.3. Quy trình xử lý mẫu trầm tích xác định đồng thời các kháng sinh Kết quả khảo sát đã tìm ra được các điều kiện tối ưu cho quá trình chiết mẫu: - Trạng thái của mẫu chiết là ở dạng ướt. - Dung dịch thích hợp chiết kháng sinh ra khỏi trầm tích là MeOH: đệm citrat (1:1, v/v; pH =4,0). 8 Kết quả thẩm định phương pháp: - Khoảng tuyết tính của đường chuẩn từ 0,5 – 100 µg/L tùy từng kháng sinh, R 2 >0,99. - Ảnh hưởng của nền mẫu từ -20,6 – 11,6%; độ thu hồi từ 73,8 – 113,4%; RSD: 1,6 – 8,4%; MDL: 0,06 – 0,63 μg/L; MQL: 0,17 – 1,91 μg/L. Quy trình phân tích kháng sinh trong trầm tích được thể hiện trong hình 3.10 3.1.4. Quy trình xử lý mẫu cá xác định đồng thời kháng sinh Kết quả khảo sát đã tìm ra được các điều kiện tối ưu cho quá trình chiết mẫu: - Dung dịch chiết kháng sinh ra khỏi mẫu cá: ACN (FA 0,5-1%). - Dung dịch hòa tan cặn trước khi loại chất béo: ACN 10% (FA 0,1%). Kết quả thẩm định phương pháp: - Khoảng tuyết tính của đường chuẩn từ 0,25 – 10 µg/kg tùy từng kháng sinh, R 2 >0,99. - Ảnh hưởng của nền mẫu từ -20,9 - 18,8%; Độ thu hồi: 68,6 – 109,1%; RSD: 3,4 – 11,7%; MDL: 0,04 – 0,44 μg/kg; MQL: 0,14 – 1,32 μg/kg. Quy trình phân tích kháng sinh trong cá được thể hiện trong hình 3.12 3.2. Hàm lượng kháng sinh trong nước, trầm tích và động vật thủy sinh ở năm hồ của Hà Nội 3.2.1. Hàm lượng kháng sinh trong nước hồ Kháng sinh có trong các nguồn nước thải chỉ bị loại bỏ một phần bởi các quá trình sinh học hoặc các quá trình khác, phần còn lại vẫn tồn tại trong môi trường nước nên chúng có khả năng lan truyền xa hơn và tích tụ với nồng độ cao. Vì vậy nghiên cứu đã tiến hành phân tích hàm lượng kháng sinh trong nước của năm hồ Hà Nội, kết quả cho thấy cả năm hồ nghiên cứu đều phát hiện thấy kháng sinh với nồng độ dao động từ nhỏ hơn giới hạn phát hiện đến <2 µg/L. Trong đó kháng sinh có nồng độ lớn nhất trong các hồ: SMX - 1619,35 ng/L, STZ - 13,78 ng/L ở hồ Yên Sở; SMZ - 30,19 ng/L ở hồ Thủ Lệ; TRI - 118,00 ng/L, CIP - 823,55 ng/L, OFL - 430,11 ng/L ở hồ Ngọc Khánh; ENR - 16,88 ng/L, NOR - 79,00 ng/L ở hồ Tây; SMR - 16,34 ng/L ở hồ Trúc Bạch. 9 Trong các kháng sinh QNs thì CIP và OFL là phát hiện với nồng độ và tần suất lớn nhất, có những nơi nồng độ lên đến 431,11 ng/L. Đây cũng là hai kháng sinh được phát hiện thấy ở nồng độ cao trong nước thải sinh hoạt và nước thải bệnh viện ở các quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc, Thụy Điển, . So với nồng độ kháng sinh có trong nước tại hai cửa xả ra sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu (CIP: 1662,26 – 9804,17 ng/L; OFL: 70,45 – 930,48 ng/L) cho thấy nồng độ kháng sinh đã có sự suy giảm đáng kể đặc biệt là kháng sinh CIP. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là do các kháng sinh QNs dễ dàng bị hấp phụ vào các chất rắn lơ lửng và xa lắng xuống bùn hay tham gia phản ứng quang phân. Nhưng so với nồng độ kháng sinh trong nước của các sông hồ trên thế giới tiếp nhận các nguồn nước thải đã xử lý hoặc có dòng chảy mạnh thì nồng độ kháng sinh CIP, OFL trong nước hồ Trúc Bạch, Ngọc Khánh và Yên Sở lớn hơn rất nhiều. Vậy có thể khẳng định rằng ba hồ trên tiếp nhận trực tiếp một lượng lớn nước thải chưa qua xử lý. Kháng sinh NOR và ENR là những kháng sinh sử dụng trong nông nghiệp, nên nồng độ cũng như tần suất phát hiện là rất thấp. Kháng sinh SMX sử dụng phổ biến cho người và gia súc ở Việt Nam, nên việc phát hiện thấy nồng độ cao (từ nhỏ hơn giới hạn phát hiện đến 1619,35 ng/L), tần suất lớn (100%) là hợp lý. Vì kháng sinh này khi đi vào cơ thể có khoảng 15% lượng thuốc đào thải ra ngoài không thay đổi, có độ linh động cao, có xu hướng hòa tan trong nước và độ bền tương đối lớn (thời gian bán hủy 480 ngày). Nồng độ kháng sinh SMX trong nước tại một số điểm trong năm hồ tương đương với nồng độ kháng sinh trong nước thải của các trang trại và nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý như hồ Yên Sở tháng 11/2014 là 1048 ng/L; hồ Ngọc Khánh tháng 5/2015 là 182 ng/L. Kết quả này một lần nữa khẳng định hồ Yên sở, hồ Ngọc Khánh là những hồ tiếp nhận một lượng rất lớn các nguồn nước thải chưa qua xử lý vào hồ. TRI cũng là một trong những kháng sinh phát hiện với nồng độ tương đối cao từ nhỏ hơn giới hạn phát hiện đến 293,00 ng/L và tần suất 100,0%. Kháng sinh này cũng được tìm thấy ở nhiều nguồn nước khác nhau trên thế giới, do nó có độ linh động cao, chỉ bị phân hủy bởi vi khuẩn nitrat hóa. Tỷ lệ giữa nồng độ SMX và TRI trong nước tại các hồ có sự thay đổi đáng kể theo từng vị trí trong hồ và theo từng hồ, điều này có thể do quá trình chuyển hóa của hai kháng sinh trong môi trường là khác nhau. Ba kháng sinh STZ, 10 SMZ và SMR là những kháng sinh sử dụng trong nông nghiệp nên tần suất xuất hiện cũng như nồng độ phát hiện là rất thấp. Kết quả khảo sát cho thấy ở những nơi tiếp nhận nguồn thải nồng độ kháng sinh cao hơn nhiều so với các khu vực khác, vì vậy có thể khẳng định một trong những nguyên nhân chính ô nhiễm kháng sinh trong hồ là do các nguồn nước thải chưa qua xử lý chảy vào hồ. Nguồn nước này là sự hòa trộn chủ yếu của nước thải sinh hoạt và nước thải y tế, trong đó nước thải sinh hoạt là nguyên nhân ô nhiễm chính. Bởi vì nồng độ kháng sinh đo được tại các cống thải sinh hoạt rất lớn lên đến 9840,17 ng/L, còn hàm lượng kháng sinh QNs, SAs, TRI trong nước thải bệnh viện tại Hà Nội ra các kênh dẫn nước là thấp, do hệ thống xử lý có thể loại bỏ tới 80% hàm kháng sinh QNs và kháng sinh SAs, TRI là những kháng sinh ít sử dụng trong bệnh viện. Nguyên nhân thứ hai ô nhiễm kháng sinh vào hồ là từ nước thải đã qua xử lý, vì hiện nay Hà Nội đã xây dựng một số trạm xử lý nước thải đô thị như các hệ thống này đều loại bỏ không hiệu quả kháng sinh. Ngoài ra kháng sinh có thể được đưa vào từ việc nuôi thả cá nhưng lượng này là không đáng kể và từ việc chảy tràn nước mưa ô nhiễm kháng sinh. 3.2.2. Hàm lượng kháng sinh trong trầm tích Kết quả phân tích kháng sinh trong 108 mẫu trầm tích của hồ Tây thể hiện ở bảng 3.17 cho thấy nồng độ dao động từ nhỏ hơn giới hạn phát hiện đến 10,69 μg/kg bùn khô, trong đó các kháng sinh QNs có khả năng tích tụ trong trầm tích cao hơn so với các kháng sinh SAs và TRI. Đó là do trong phân tử QNs có cấu tạo càng, chúng có khả năng gắn kết dễ dàng với các cation có trong trầm tích nên làm tăng khả năng hấp phụ và làm chậm quá trình phân hủy sinh học. Kháng sinh ENR, NOR, STZ, SMZ và SMR như đã đề cập ở trên là những kháng sinh được sử dụng phổ biến trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản nên nồng độ phát hiện trong trầm tích là rất nhỏ, đặc biệt đối với hai kháng sinh STZ và SMR không phát hiện thấy ở mọi vị trí. Bảng 3.17. Nồng độ kháng sinh trong trầm tích của hồ Tây Kháng sinh Nồng độ (μg/kg) Tần suất (%) Min Max Mean SMX < MDL 0,81 < 0,07 38,3 11 STZ < MDL < MDL < MDL 0,0 SMZ < MDL <MQL < MDL 28,2 SMR < MDL < MDL < MDL 0,0 TRI < MDL 2,45 0,22 36,2 CIP < MDL 10,69 1,04 43,0 ENR < MDL 3,99 0,04 25,4 OFL < MDL 6,48 0,30 28,0 NOR < MDL 5,10 0,33 27,9 Nghiên cứu cũng tiến hành đánh giá hàm lượng kháng sinh trong trầm tích hồ Trúc Bạch với nồng độ từ không phát hiện thấy đến 23,81 μg/kg bùn khô. Nồng độ và tần suất của kháng sinh SMX là lớn nhất (1,79 µg/kg; 74,3% theo thứ tự) và thấp nhất là hai kháng sinh STZ và SMZ không phát hiện thấy ở mọi vị trí. So sánh nồng độ kháng sinh trong trầm tích của hồ Tây với hồ Trúc Bạch cho thấy nồng độ kháng sinh trong trầm tích của hồ Tây thấp hơn nhiều so với hồ Trúc Bạch đặc biệt là kháng sinh CIP. Hình 3.14. Mối quan hệ giữa nồng độ kháng sinh trong nước với trầm tích của hồ Tây Hình 3.15. Mối quan hệ giữa tổng nồng độ kháng sinh trong nước với trầm tích của hồ Trúc Bạch Tần suất phát hiện kháng sinh trong trầm tích của các hồ thấp hơn so với tần suất phát hiện trong nước và nhìn chung khi nồng độ kháng sinh trong nước cao thì nồng độ kháng sinh trong trầm tích cũng cao. Điều đó cho thấy có mối tương quan giữa nồng độ kháng sinh trong nước và trong trầm tích, kết quả được thể hiện ở hình 3.14 và 3.15. Mối quan hệ giữa hai đại lượng này là khác nhau giữa các hồ, như ở hồ Tây mối quan hệ giữa hai 12 đại lượng này là không rõ ràng (R 2 = 0,0648), nhưng trong hồ Trúc Bạch giữa hai đại lượng này mối quan hệ tuyến tính là tương đối cao (R 2 = 0,6642). Sự khác biệt nay cho thấy nồng độ kháng sinh trong trầm tích không chỉ phụ thuộc vào nồng độ kháng sinh trong nước mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ thủy động, thời tiết, . 3.2.3. Hàm lượng kháng sinh trong động vật thủy sinh Kết quả phân tích kháng sinh trong các mẫu động vật thủy sinh của hồ Trúc Bạch ở bảng 3.19 cho thấy nồng độ kháng sinh dao động từ không phát hiện thấy đến 15,13 g/kg, trong đó kháng sinh ít phát hiện thấy là NOR và kháng sinh phát hiện với tấn suất lớn và nồng độ cao là OFL, có những mẫu nồng độ OFL lên đến 15,13 g/kg. Nồng độ kháng sinh CIP và OFL trong mô cá và ốc nhìn chung lớn hơn so kháng sinh SMX và TRI, điều này có thể là do cơ chế chuyển hóa của các kháng sinh trong động vật. Bảng 3.19. Nồng độ kháng sinh trong cá rô phi, ốc của HTB Hà Nội Kháng sinh Cá rô phi (n = 14) Ốc (n = 12) Min (g/kg) Max (g/kg) Median (g/kg) TS (%) Min (g/kg) Max (g/kg) Median (g/kg) TS (%) SMX <MDL 2,00 <MQL 83,3 <MDL 1,85 0,67 83,3 TRI <MDL 1,44 <MQL 83,3 0,57 2,45 0,94 100 NOR <MDL 1,31 <MQL 66,7 <MDL 4,90 <MQL 83,3 CIP <MQL 3,29 1,10 83,3 1,21 7,04 3,76 100 OFL <MQL 8,07 2,32 83,3 5,54 15,13 11,23 100 Trong hai loại động vật thủy sinh nghiên cứu thì khả năng tích tụ kháng sinh trong ốc lớn hơn nhiều so với khả năng tích tụ kháng sinh trong cá rô phi, vì vậy nghiên cứu đã tiến hành đánh giá khả năng tích tụ kháng sinh theo thời gian của ốc. Kết quả trong bảng 3.20 cho thấy nồng độ kháng sinh trong ốc có kích thước nhỏ (OHTBN) gần tương đương so với nồng độ kháng sinh trong ốc có kích thước lớn (OHTBL). Nghĩa là kháng sinh không có khả năng tích tụ lại trong ốc giống như kim loại nặng hoặc một số chất ô nhiễm khác đã được nghiên cứu mà chúng sẽ bị đào thải hoặc chuyển hóa thành các chất khác. 13 Bảng 3.20. Sự biến đổi nồng độ kháng sinh trong ốc theo thời gian Thời gian OHTBL (µg/kg) OHTBN (µg/kg) SMX TRI CIP OFL SMX TRI CIP OFL T01/2014 <MDL 0,82 2,56 7,04 <MQL 0,67 2,08 7,44 T03/2014 <MQL 0,72 1,21 10,59 <MDL 0,64 1,25 9,44 T10/2016 0,59 1,06 2,05 5,57 <MQL 0,57 2,11 5,54 T12/2016 0,87 1,02 6,78 14,90 0,93 0,90 6,23 13,28 T01/2017 1,67 2,45 4,97 14,49 0,85 2,09 3,62 14,35 Nghiên cứu cũng tiến hành phân tích kháng sinh trong cá rô phi của 4 hồ còn lại, kết quả cho thấy 100% mẫu cá tại hồ Yên sở bị nhiễm kháng sinh SMX, CIP và OFL với nồng độ từ 0,81 đến 2,03 μg/kg, hồ Tây, hồ Thủ Lệ và hồ Trúc Bạch có hai kháng sinh không phát thấy trong các mẫu cá rô phi, hồ Ngọc Kháng có một kháng sinh STZ không phát hiện thấy. So sánh kết quả phân tích với tiêu chuẩn cho phép về dư lượng kháng sinh trong các sản phẩm thủy sản của Liên minh Châu Âu cho thấy hàm lượng kháng sinh trong các mẫu động vật thủy sinh vẫn nằm trong giới hạn cho phép, nghĩa là vẫn an toàn về thực phẩm đối với kháng sinh, nhưng so sánh với tiêu chuẩn của Cơ quan Thanh tra Thực phẩm Canada (CFIA), thì một số mẫu vượt quá tiêu chuẩn cho phép đặc biệt là ốc. Vì vậy cần có những nghiên cứu thêm để đưa ra các cảnh báo về an toàn thực phẩm. Kết quả trên hình 3.23 và 3.24 cho thấy nồng độ kháng sinh trong nước ảnh hưởng tương đối lớn tới khả năng tích tụ kháng sinh trong các mô cá rô phi, với hệ số tương quan R 2 >0,7. Khác với cá rô phi, ốc là động vật thân mềm, thường sống vùi mình trong bùn nên nồng độ kháng sinh trong nước ảnh hưởng ít hơn tới khả năng tích tụ, kết quả thể hiện trên hình 3.24 cho thấy hệ số tương quan giữa hai đại lượng này là tương đối thấp (R 2 = 0,5192), nhưng nồng độ kháng sinh trong trầm tích lại có ảnh hưởng lớn tới khả năng tích tụ (R 2 = 0,8543). 14 Hình 3.23. Mối quan hệ giữa tổng nồng độ kháng sinh trong nước và trong cá của HTL Hình 3.24. Mối quan hệ giữu tổng kháng sinh trong nước với kháng sinh trong cá và ốc của HTB 3.3. Sự phân bố nồng độ kháng sinh theo không gian và thời gian 3.3.1 Sự phân bố nồng độ kháng sinh trong nước hồ Trong số 5 hồ nghiên cứu, hồ Tây và hồ Trúc Bạch được lựa chọn để đánh giá sự phân bố nồng độ kháng sinh theo không gian. Kết quả khảo sát cho thấy xung quanh hồ Tây có hàng chục các cống xả thải vào hồ nhưng các số liệu thể hiện trên hình 3.19 cho thấy ở những khu vực có lượng nước thải nhỏ thì nồng độ kháng sinh ít có sự tăng đột biến còn ở những khu vực có lượng nước thải vào lớn thì nồng độ kháng sinh trong nước lớn hơn nhiều so với các khu vực khác như ở vị trí lấy mẫu 1, 15, 17. Vị trí ít ô nhiễm kháng sinh nhất là khu vực giữa hồ, phía bên đường Quảng An và Quảng Bá nồng độ kháng sinh dao động chủ yếu từ nhỏ hơn giới hạn phát hiện đến vài ng/L. Một kết quả tương tự cũng được ghi nhận ở hồ Trúc, vị trí bị ô nhiễm kháng sinh nhất là ở gần hai cống xả nước thải chưa qua xử lý từ mương Ngũ Xã (vị trí lấy mẫu số 2 và 4) vào hồ, nồng độ kháng sinh trong hai vị trí này dao động từ 7,19 ng/L đến 211,67 ng/L. Khu vực ít ô nhiễm kháng sinh nhất là ở vị trí số 7, nằm ở vị trí gần giữa hồ, nồng độ kháng sinh ở khu vực này dao động từ nhỏ hơn giới hạn phát hiện đến 29,46 ng/L. 15 Hình 3.19. Đồ thị biểu diễn sự biến đổi tổng nồng độ kháng sinh trong nước theo vị trí lấy mẫu của hồ Tây vào T9/2014, T11/2014, T3/2015 và T6/2015 Hình 3.21 và 3.22 cho thấy sự biến đổi nồng độ kháng sinh không chỉ khác nhau giữa các hồ mà giữa các điểm trong một hồ cũng có thể khác nhau. Đối với hồ Tây tại các vị trí lấy mẫu ít chịu tác động của nguồn thải như vị trí số 4 thì tổng nồng độ kháng sinh lớn nhất được phát hiện vào các tháng mùa mưa và nồng độ kháng sinh giữa các điểm hồ có sự dao động rất lớn, còn tại các vị trí lấy mẫu số 17 nồng độ kháng sinh lớn nhất rơi vào các tháng mùa khô nhưng sự dao động nồng độ kháng sinh giữa điểm là không lớn. Trong khi đó ở hồ Trúc Bạch sự biến động nồng độ kháng sinh ở vị trí lấy mẫu xa nguồn thải (7) và ở vị trí lấy mẫu gần nguồn thải (2) là tương tự nhau, nồng độ kháng sinh lớn nhất được phát hiện vào các tháng mùa khô. Điều này có thể giải thích là do hồ Trúc Bạch có diện tích nhỏ nên quá trình khuếch tán các chất ô nhiễm từ các nguồn thải đến các vị trí khác nhau diễn ra nhanh hơn, còn hồ Tây diện tích lớn hơn rất nhiều nên quá trình khuếch tán kháng sinh từ khu vực ô nhiễm sang các khu vực ít ô nhiễm chỉ diễn ra mạnh khi lượng nước đổ vào hồ lớn. 16 Hình 3.21. Sự biến đổi nồng độ kháng sinh theo thời gian của Hồ Tây Ngoài ra nghiên cứu cũng tiến hành đánh giá ảnh hưởng của mùa mưa và mùa khô tới sự biến đổi nồng độ kháng sinh trong 3 hồ (HTL, HNK, HYS), kết quả cho thấy hồ Ngọc Khánh thường xuyên tiếp nhận một lượng lớn nước thải chưa qua xử lý từ các hộ dân xung quanh và khu vực lân cận nồng độ kháng sinh lớn nhất được phát hiện vào các tháng mùa khô (Tháng 3/2014 và tháng 1/2015) do nước thải không được pha loãng và dung tích nước trong hồ ít. Nhưng ở hồ ít tiếp nhận nước thải (hồ Thủ Lệ) và tiếp nhận các nguồn nước đã qua xử lý (hồ Yên Sở) thì các tháng mùa mưa nồng độ kháng sinh lại cao hơn. Hình 3.22. Sự biến đổi nồng độ kháng sinh theo thời gian của hồ Trúc Bạch Nhiệt độ và cường độ ánh sáng cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng tới nồng độ kháng sinh trong nước, kết quả cho thấy khi nhiệt độ thay đổi thì nồng độ kháng sinh trong hồ cũng biến đổi theo như mối quan hệ tuyến tính giữa hai đại lượng này rất thấp (R 2 < 0,42). Kết quả này có thể là do 17 khí hậu nhiệt đới gió mùa của Hà Nội, khi nhiệt độ tăng thì lượng kháng sinh bị phân hủy tăng nhưng nó cũng tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển mạnh nên lượng kháng sinh tiêu thụ nhiều hơn. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến một số kháng sinh trong các hồ không biến đổi theo quy luật với nhiệt độ. Lượng mưa cũng ảnh hưởng mạnh tới sự biến đổi nồng độ kháng sinh trong nước, kết quả cho thấy khi lượng mưa thay đổi nồng độ kháng sinh cũng biến đổi nhưng không giống nhau giữa các hồ và các loại kháng sinh. Điều này một lần nữa khẳng định nồng độ kháng sinh trong hồ chịu tác động của nhiều yếu tố. 3.3.2. Sự phân bố nồng độ kháng sinh trong trầm tích Kết quả tính Kd trong bảng 3.22 cho thấy có sự khác nhau lớn giữa sự tích tụ kháng sinh trong trầm tích của hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Trong hồ Tây các kháng sinh QNs và TRI có hệ số hấp phụ cao hơn nhiều so với các kháng sinh SAs và cao nhất là CIP (75,92 L/kg), nhưng trong hồ Trúc Bạch hệ số hấp phụ Kd của các kháng sinh lại ngược lại Kd của QNs thấp hơn so với kháng sinh SMX. Sự khác biệt này là do khả năng hấp phụ kháng sinh trong trầm tích ngoài phụ thuộc vào bản chất của kháng sinh còn phụ thuộc vào môi trường nước (như độ mặn, độ pH, ), bản chất của trầm tích (như thành phần chất hữu cơ, các kim loại nặng và kích thước của các hạt trầm tích) và điều kiện thời tiết. Bảng 3.22. Hệ số octanol - nước (KOW), hệ số hấp phụ (Kd) của các kháng sinh nghiên cứu trong trầm tích hồ Tây và hồ Trúc Bạch Kháng sinh LogKOW Hồ Tây Hồ Trúc Bạch Cs (ng/kg) Cw (ng/L) Kd (L/kg) Cs (ng/kg) Cw (ng/L) Kd (L/kg) SMX 0,89 < MQL 16,75 - 1792,30 24,66 72,68 STZ 0,05 < MDL nd - < MDL < MDL - SMZ 0,89 <
File đính kèm:
tom_tat_luan_an_nghien_cuu_danh_gia_du_luong_mot_so_chat_kha.pdf