Tóm tắt Luận án Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin và đề xuất các biện pháp bảo tồn, sử dụng bền vững

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin và đề xuất các biện pháp bảo tồn, sử dụng bền vững", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin và đề xuất các biện pháp bảo tồn, sử dụng bền vững

cỏ đứng (COD) chiếm tỷ lệ nhiều nhất (24,05%) với 172 loài. Bảng 3.5: Các dạng sống của cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin STT Dạng sống Số loài Tỷ lệ (%) 1 GOL (gỗ lớn) 78 10,91 2 GOT (gỗ trung bình) 76 10,63 3 GON (gỗ nhỏ) 114 15,94 4 BUI (bụi) 118 16,50 5 COD (cỏ đứng) 172 24,05 6 COL (cỏ leo) 78 10,91 7 DLG (dây leo gỗ) 24 3,35 8 CPS (cây phụ sinh) 27 3,80 9 BTR (bụi trườn) 18 2,56 10 CAU (cây dạng cau) 5 0,70 11 TRE (tre) 2 0,28 12 CKS (cây ký sinh) 3 0,42 Tổng 715 100,00 Tổng số loài cây thuốc không phải là cây gỗ chiếm nhiều nhất (62,52%) so với tổng số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu. Đây là số liệu rất tốt cho công tác quản lý, phát triển và khai thác cây thuốc trong mối tương quan với bảo tồn đa dạng sinh học của VQG Chư Yang Sin sau này. 3.1.2. Đặc điểm phân bố cây thuốc trong các kiểu thảm thực vật Để đánh giá đặc điểm phân bố của các loài cây thuốc trong các kiểu thảm thực vật, chúng tôi dựa vào bản đồ hiện trạng thảm thực vật của VQG Chư Yang Sin do Vườn cung cấp làm cơ sở thiết lập các tuyến điều tra. Từ đó, thống kê số lượng loài cây thuốc phân bố ở các kiểu thảm thực vật khác nhau trong VQG. Qua điều tra, nghiên cứu chúng tôi thấy cây thuốc có mặt ở hầu hết các thảm thực vật điển hình của VQG và vùng đệm. Kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa ẩm á nhiệt đới núi thấp là kiểu thảm có nhiều cây thuốc phân bố nhất, với 369 loài (chiếm 51,60%). 9 Bảng 3.6: Số loài cây thuốc tại các kiểu thảm thực vật TT Kiểu thảm Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) Số cây thuốc Tỷ lệ (%) 1 Kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa ẩm nhiệt đới 5.342,4 8,97 256 35,80 1.1 Kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa ẩm nhiệt đới 1.581,54 2,66 205 28,67 1.2 Kiểu rừng phụ thứ sinh (rừng phụ thứ sinh nhân tác, rừng kín thường xanh mưa mùa ẩm nhiệt đới phục hồi sau nương rẫy, kiểu rừng phụ thứ sinh tre nứa phục hồi sau nương rẫy, trảng cỏ, cây bụi, cây gỗ rải rác) 3.760.86 6,31 51 7,13 2 Kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa ẩm á nhiệt đới núi thấp 43.829,8 73,63 369 51,60 2.1 Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp 29.515,69 49,58 309 43,21 2.2 Kiểu rừng phụ thứ sinh (kiểu phụ thứ sinh nhân tác rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp phục hồi sau nương rẫy, kiểu phụ thứ sinh tre nứa phục hồi sau nương rẫy và trảng cỏ, cây bụi, cây gỗ rải rác) 14.314,11 24,05 60 8,39 3 Kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa ẩm á nhiệt đới núi cao trung bình 2.894,10 4,86 166 23,2 4 Kiểu rừng thưa cây lá kim hơi khô á nhiệt đới núi thấp 7.019,39 11,79 89 12,44 5 Thảm cây nông nghiệp 439,35 0,75 29 4,1 Tổng 59.515,9 99,98 909 127,1 (Tỷ lệ % trong bảng lớn hơn 100% là do có nhiều loài có mặt trong nhiều kiểu thảm khác nhau) 3.1.3 Giá trị bảo tồn nguồn gen cây thuốc So với số lượng cây thuốc đã biết hiện nay ở nước ta, VQG Chư Yang Sin chứa đựng một nguồn gen cây thuốc khá phong phú và đa dạng; chúng tôi đã thống kê được 715 cây thuốc, chiếm 18,34% (so với tổng số loài thực vật bậc cao có mạch làm thuốc đã biết ở nước ta - 3.897 loài). 10 Giá trị nguồn gen cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin không chỉ thể hiện ở số lượng lớn loài cây thuốc mà còn chứa đựng rất nhiều nguồn gen quý, hiếm và độc đáo (Trầm hương (Aquilaria crassna); Bí kỳ nam (Hydnophytum formicarum); Kỳ nam gai (Myrmecodia tuberosa); Pơ mu (Fokienia hodginsii); Thông đà lạt (Pinus dalatensis); Thông 2 lá dẹt (Pinus krempfii); Cốt toái bổ (Drynaria fortunei);..). 3.1.3.1. Theo sách đỏ Việt Nam, 2007. Dựa vào “Sách đỏ Việt Nam, 2007- Phần II: Thực vật” thì cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin có 45 loài chiếm 6,2% tổng số loài cây thuốc trong khu vực nghiên cứu đang bị đe dọa ở các mức độ khác nhau như sau: Mức độ rất nguy cấp (CR): có 01 loài; mức độ nguy cấp (EN): có 19 loài; mức sẽ nguy cấp (VU): gồm có 25 loài. 3.1.3.2. Theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm. Căn cứ theo Nghị định này, đã thống kê được 21 loài, cụ thể: nhóm I.A: có 3 loài. nhóm II.A: 18 loài. 3.1.3.3. Theo danh lục đỏ cây thuốc 2006 Theo Danh lục đỏ cây thuốc (2006), chúng tôi đã thống kê được 27 loài ở các mức phân hạng sau: Mức đang bị nguy cấp (EN): có 13 loài; mức sắp nguy cấp (VU): có 14 loài. Rõ ràng, tài nguyên cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin không chỉ chứa nguồn gen nhiều loài quý, hiếm, có giá trị cao mà là nơi chứa nhiều loài cây thuốc nguy cấp mà cho tới nay chưa được nghiên cứu kỹ. 3.2. Giá trị sử dụng và mối đe dọa nguồn tài nguyên cây thuốc 3.2.1. Giá trị sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc trong y học cổ truyền và công nghiệp dƣợc phẩm. 3.2.1.1. Giá trị trong y học cổ truyền Hiện nay, theo thống kê của Bộ Y tế thì số loài cây thuốc được sử dụng trong Y học cổ truyền tại các bệnh viện y học cổ truyền và lương y là khoảng 180 - 200 loài. Theo danh lục này, đã thống kê được ở VQG Chư Yang Sin có mặt 120 loài. Có nhiều loài khá nổi tiếng như Đảng sâm, Ngân đằng, Hoài sơn, Tắc kè đá, Thổ phục linh, Xuyên tâm liên, Gừng, Địa liền, Sa nhân, Nhân trần, Chè dây, Kha tử và các loài Bình vôi,... 11 3.2.1.2. Giá trị trong công nghiệp dược So với danh mục thuốc (khoảng 300 loại) có nguồn gốc thực vật của Bộ Y tế (2013) thì cây thuốc ở VQG Chư Yang Sin hiện đang chứa đựng khoảng 70 loài cây thuốc và vị thuốc dùng để sản xuất thuốc. Điển hình trong số đó là Vàng đắng, Đảng sâm, Hoài sơn, Ba gạc, Chè dây, Sa nhân, Gừng, Địa liền, Chó đẻ răng cưa, các loài Bình vôi,... Trong đó, một số loài có thể cung cấp cho thị trường một lượng lớn nguyên liệu dược mỗi năm như Sa nhân, Giềng, Gừng và Địa liền, Bá bệnh, Chè dây, Kháo nhậm; cho khối lượng thấp hơn: Vàng đắng, củ Thổ phục linh,.... 3.2.2. Tri thức bản địa và vai trò của cây thuốc trong đời sống ngƣời dân thiểu số trong vùng đệm 3.2.2.1. Tri thức bản địa VQG Chư Yang Sin có 3 dân tộc thiểu số bản địa (M’nông, Ê đê và K’ho). Trước đây, các dân tộc này sống ở vùng lõi của VQG, sau này (1985) họ được di dời ra sống ở vùng đệm của Vườn. Qua điều tra, chúng tôi nhận thấy rằng tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc bản địa tại khu vực nghiên cứu rất độc đáo. Tuy nhiên, số liệu thu được mới chỉ là kết quả ban đầu, chưa đủ đại diện cho tri thức và kinh nghiệm của cả dân tộc nhưng cũng xin được trình bày ở đây như sau: a) Thành phần cây thuốc truyền thống của 3 dân tộc bản địa - Dân tộc M’nông Chúng tôi đã điều tra, thông kê được 85 loài, 79 chi, 52 họ thuộc 02 ngành: ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) và ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) được người M’nông thường xuyên thu hái và sử dụng theo kinh nghiệm truyền thống. Đa số loài cây thuốc tập trung ở ngành Ngọc lan, với 83 loài (chiếm 97,65%); trong đó lớp Ngọc lan chiếm 74 loài. Họ Đậu (Fabaceae) có số loài được sử dụng làm thuốc nhiều nhất (10 loài). - Dân tộc Êđê Thành phần cây thuốc truyền thống của dân tộc Ê đê đa dạng nhất trong số 3 dân tộc bản địa về số lượng các bậc taxon (ngành, họ, chi, loài). Theo kết quả điều tra, chúng tôi đã thống kê cây thuốc đồng bào Ê đê thường xuyên thu hái và sử dụng là 105 loài, 92 chi, 58 họ thuộc 5 ngành: ngành Lá thông, ngành Thông đất, ngành Dương xỉ, ngành Thông và ngành Ngọc lan. Đa số cây thuốc thuộc ngành Ngọc lan, với 98 loài (chiếm 93,33%); trong đó lớp Ngọc lan có 73 loài, chiếm 74,48%. Hai họ có số loài 12 được sử dụng làm thuốc nhiều nhất (6 loài/họ) là họ Đậu (Fabaceae) và họ Gừng (Zingiberaceae). - Dân tộc K’ho Thành phần cây thuốc truyền thống của đồng bào dân tộc K’ho thấp hơn hẳn so với hai dân tộc đã nêu trên và nhiều dân tộc khác (một số dân tộc phía Bắc: H’mông, Dao, Thái,). Chúng tôi đã ghi nhận được 65 loài cây thuốc của 64 chi, 39 họ thuộc 2 ngành: ngành Thông đất (Lycopodiophyta) và ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) thường xuyên được người K’ho thu hái và sử dụng tại cộng đồng. Trong đó, ngành Thông đất chỉ có 2 loài, 2 chi của 1 họ duy nhất. Ngành Ngọc lan chiếm ưu thế vượt trội với 63 loài, 62 chi và 38 họ. Họ Cúc (Asteraceae) có số loài bị thu hái làm thuốc nhiều nhất (6 loài). Như vậy, tổng số loài cây thuốc của 3 dân tộc đã được thống kê là 215 loài của 173 chi, 88 họ thuộc 5 ngành (ngành Lá thông, Thông đất, Dương xỉ, Thông và ngành Ngọc lan). Sự khác biệt rõ rệt về thành phần cây thuốc giữa 3 dân tộc cho thấy rằng: dù sinh sống cùng địa giới hành chính song mỗi dân tộc đều có thành phần cây thuốc và nguồn tri thức riêng biệt. Một số rất ít loài dùng chung có cùng công dụng, phản ánh sự giao thoa kiến thức giữa các dân tộc. Thành phần loài cây thuốc của cả 3 dân tộc tuy không nhiều so với các dân tộc khác ở phía Bắc (Dao, H’mông,..) nhưng phải nói rằng, 3 dân tộc thiểu số vùng nghiên cứu có nhiều cách chế biến cây thuốc độc đáo và khác lạ (dân tộc M’nông dùng trực tiếp nhựa cây Dầu mít (Dipterocarpus alatus) chữa đau bụng ở trẻ em, độc đáo và khác lạ hơn nữa là đun quả Chiêu liêu (Terminalia chebula) tắm chữa sởi, trong khi đó bệnh này ở các dân tộc phía Bắc lại kiêng nước; dân tộc Ê đê dùng cụm hoa cây Giềng gió (Zingiber zerumbet) đập dập đắp vào chim trẻ em để chữa đái dầm; lấy nước cắt ngang cây Sổ bạc (Dillenia hookeri) uống chữa tiêu chảy trẻ em, nướng củ gừng cho phụ nữ mới sinh ăn ra nhiều sữa, là những ví dụ điển hình). b) Kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc. * Bộ phận sử dụng Hầu hết các bộ phận của cây đều được sử dụng chữa bệnh, tuy nhiên tỷ lệ mỗi bộ phận được sử dụng là khác nhau và không giống nhau ở từng dân tộc. Số liệu được trình bày cụ thể như sau: 13 Bảng 3.10: Tỷ lệ (%) các bộ phận của cây thuốc bị thu hái bởi 3 dân tộc bản địa (M’nông, Ê đê và K’ho) Bộ phận sử dụng Dân tộc Lá Thân Rễ Cả cây Tổng tỷ lệ các bộ phận khác (hoa, quả, hạt, nhựa,...) M’nông 22,9 19,8 38,5 16,5 22,9 Ê đê 56,1 29,4 3,7 24,5 19,6 K’ho 33,1 7,6 30,3 7,6 22,5 Nhìn chung, với kiểu thu hái và sử dụng theo kinh nghiệm truyền thống thì khả năng cây thuốc bị đe dọa là rất cao bởi tổng tỷ lệ thu hái rễ, thân và cả cây của cả 3 dân tộc rất lớn. Nếu không được quan tâm, quản lý chặt chẽ sẽ có nhiều loài cây thuốc bị rơi vào tình trạng rất nguy cấp, khả năng bị hủy diệt rất cao. Đó là các loài bị thu hái cả cây: các loài Lan gấm (Anoectochilus spp.); Thạch hộc (Dendrobium spp.),....; Bí ký nam (Hydnophytum formicarum); Kỳ nam gai (Myrmecodia tuberosa); Tắc kè đá (Drynaria bonii); Cốt toái bổ (Drynaria fortunei); Dó đất (Balanophora laxiflora) hoặc các loài đào cây để lấy củ: Đảng sâm (Codonopsis javanica); Thiên môn (Asparagus filicinus); Hoài Sơn (Dioscorea hamiltonii);.... Đây là những loài tái sinh kém, sinh trưởng chậm, số lượng cá thể ít, quần thể nhỏ, phân tán, chất lượng cá thể thường rất yếu ớt hoặc còi cọc, rất dễ bị tổn thương bởi tác động ngoại cảnh dù là rất nhỏ. * Công dụng Tại cộng đồng các dân tộc thiểu số, cây thuốc rất có giá trị và đóng vai trò quan trọng trong phòng và chữa bệnh; 15 nhóm bệnh đã được chữa trị tại cộng đồng mà chúng tôi thống kê từ kết quả các cuộc điều tra, phỏng vấn kinh nghiệm của các ông lang bà mế, người làm thuốc và am hiểu về cây thuốc gồm: nhóm bệnh hệ tiêu hóa (tiêu chảy, lị, dạ dày,..), nhóm bệnh hệ vận động (bong gân, gãy xương), nhóm bệnh ngoài da (ghẻ, lở, hắc lào,), nhóm bệnh hệ thần kinh (an thần - ngủ, động kinh, liệt nửa người, suy nhược cơ thể,...), nhóm bệnh hệ tuần hoàn (cầm máu, huyết áp cao, xuất huyết não,), nhóm bệnh hệ hô hấp (ho, viêm họng, khó thở, hen, suyễn, viêm phế quản, lao phổi,), nhóm bệnh trẻ em (cam tích, còi xương, sởi, đái dầm, chốc đầu,.), nhóm bệnh hệ tiết niệu (bí tiểu, đái ra máu, sỏi thận, viêm thận,..), bệnh về gan (vàng da, viêm gan, xơ gan cổ chướng,), bồi bổ cơ thể, bệnh đàn ông (viêm tinh hoàn, yếu sinh lý, liệt dương, di mộng tinh,), bệnh phụ nữ (an thai, áp xe vú, viêm âm hộ, rong kinh,), bệnh do 14 động vật cắn và các bệnh khác (cảm cúm, phát ban, cảm nắng, đau răng, bỏng,) Trong số 15 nhóm bệnh được chữa trị bằng cây thuốc, nhóm bệnh tiêu hóa, hệ vận động và bệnh ngoài da chiếm tỷ lệ lớn nhất. Đây là các bệnh thường sảy ra nhiều nhất ở cộng đồng bởi do cuộc sống vất vả, lao động nặng lại sống trong điều kiện thiếu thốn cơ sở vật chất (thiếu nước sạch, nhà vệ sinh,.). Cách chế biến cây thuốc của dân tộc bản địa rất đơn giản, chủ yếu đun uống, rất hiếm khi nấu cao. c) Kinh nghiệm khai thác và bảo quản cây thuốc Kinh nghiệm khai thác: Các dân tộc bản địa (M’nông, Ê đê và K’ho) sinh sống tại VQG Chư Yang Sin thường thu hái cây thuốc quanh năm. Nhìn chung, những người tham gia thu hái cây thuốc là những người có kinh nghiệm, có kiến thức nhất định về cây thuốc và rất am hiểu đặc tính của từng loại cây thuốc nên việc thu hái các bộ phận làm thuốc rất hợp lý (bao giờ cũng chỉ thu hái nhiều nhất 2/3 bộ phận/cây, bớt lại củ và rễ non, hạt già,...), đảm bảo hài hòa giữa sử dụng và bảo tồn cây thuốc tại cộng đồng. Tuy nhiên, hiện nay do tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường làm cho thành phần tham gia thu hái cây thuốc có nhiều thay đổi (nhiều người không am hiểu về cây thuốc cũng tham gia khai thác, thu hái nên có nhiều cây thuốc bị thu hái nhầm hoặc đáng rẽ chỉ lấy lá nhưng lại chặt cả cây,) gây ra lãng phí tài nguyên cây thuốc, nhiều cây thuốc rơi vào tình trạng bị đe dọa, cần được bảo vệ. Kinh nghiệm bảo quản: Sự bảo quản cây thuốc của cả 3 dân tộc bản địa khá đơn giản, thường chỉ có 2 cách là bảo quản tươi (vùi vào cát ẩm hoặc ấp lá) và bảo quản khô (cắt nhỏ, phơi khô (hay sao vàng), đóng túi nilon hay cho vào các hộp gỗ, ống bương, chum, vại buộc kín để gác bếp hay cất đi dùng dần). 3.2.2.2. Vai trò của cây thuốc trong đời sống ngƣời dân thiểu số ở khu vực nghiên cứu. Phải nói rằng, người dân khu vực nghiên cứu vẫn chữa bệnh theo thói quen và tập quán là chủ yếu nên cây thuốc vẫn là đối tượng đầu tiên mà người dân nghĩ tới khi họ bị nhiễm bệnh. a) Giá trị chữa bệnh tại cộng đồng. Theo số liệu điều tra, chúng tôi đã thống kê được trung bình 70% dân số các dân tộc bản địa hiện còn sử dụng cây thuốc chữa 15 nhóm bệnh khác nhau, trong đó chủ yếu là trẻ em, người già và phụ nữ đang trong tuổi sinh 15 nở, bồi bổ cơ thể; tỷ lệ này tăng lên ở các hộ gia đình sống ở làng bản gần rừng, xa trung tâm y tế,.... họ vẫn phụ thuộc vào cây cỏ trong công tác chăm sóc sức khoẻ với tỷ lệ khoảng 80 - 90% số lần mắc bệnh; ngược lại, một lượng nhỏ dân cư sống ở thị tứ, thị trấn và gần trạm y tế, lại có các dịch vụ y tế tốt hơn (có nhiều loại thuốc miễn phí hoặc được trợ giá và có tác dụng nhanh,...) thì tỷ lệ chăm sóc sức khỏe bằng cây thuốc có phần thấp hơn. Mặc dù vậy, người dân vùng đệm vẫn sử dụng cây thuốc để chữa bệnh theo cách riêng của họ, theo kinh nghiệm, tập quán và thói quen,... Giá trị cây thuốc đem lại cho cộng đồng khó mà hoạch toán chính xác bởi có bệnh nan y được chữa trị hiệu quả bằng cây thuốc, trong khi đó nếu dùng thuốc Tây thì rất tốn kém (bệnh gan, xơ gan). b) Giá trị kinh tế Ngoài giá trị chữa bệnh tại cộng đồng, cây thuốc còn cho giá trị kinh tế rất lớn, nó góp phần xóa đói, giảm nghèo, bởi việc thu hái cây thuốc là kế sinh nhai của một bộ phận dân cư vùng đệm. Hoạt động thu hái cây thuốc đem lại thu nhập trung bình 30.000 - 40.000 đồng/ngày/người. So với tổng thu nhập của người dân (nguồn thu từ trồng trọt, chăn nuôi, kinh doanh nhỏ,...) thì thu nhập từ cây thuốc chiếm khoảng 3 - 11%, tùy thuộc vào mức độ tác động vào rừng của từng hộ gia đình thu hái cây thuốc (số lượng người tham gia, số ngày thu hái, loại cây thuốc thu hái được,....). Nguồn thu nhập này liên tục bị thay đổi do phụ thuộc vào nhu cầu và giá cả thị trường. 3.2.3. Các mối đe dọa tới tài nguyên cây thuốc và tri thức bản địa về cây thuốc Trước đây, VQG Chư Yang Sin được cách ly khỏi sự phát triển kinh tế nhanh chóng của nước ta, bởi đường xá nhỏ hẹp, đi lại khó khăn, ít được kết nối với các tuyến giao thông chính; hơn nữa dân số lại ít. Do vậy, các mối đe dọa đến tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên cây thuốc nói riêng giảm thiểu xuống mức thấp. Nhưng từ những năm 80 tới nay, do giao thông được cải thiện, các con đường nối giữa huyện Lắk với Đà lạt, huyện Krông Bông với Buôn Mê Thuật được mở rộng, làm tăng tính tiếp cận, đồng thời dân số tăng nhanh do sự di cư ồ ạt của các dân tộc phía Bắc vào đã gây áp lực lớn đối với tài nguyên rừng. Việc xác định được các mối đe dọa tới tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên cây thuốc nói riêng ở khu vực nghiên cứu là rất cần thiết. Vì chỉ khi xác định đúng các mối đe dọa thì chúng ta mới xây dựng được những chương trình, kế hoạch hành động phù hợp. 16 Qua điều tra thực tế, các mối đe dọa đối với nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức sử dụng cây thuốc của các dân tộc bản địa tại VQG Chư Yang Sin được xác định như sau: 3.2.3.1. Các mối đe dọa đối với nguồn tài nguyên cây thuốc Các nguyên nhân dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin bị đe dọa được xác định gồm có: nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp a) Nguyên nhân trực tiếp: là do mất môi trường sống (mở rộng diện tích canh tác, khai thác gỗ, xây dựng thủy điện, mở đường,); khai thác quá mức (lượng khai thác vượt lượng tái sinh tự nhiên); nhu cầu sử dụng cây thuốc tăng lên (không chỉ khai thác sử dụng tại địa phương mà còn bán đi nơi khác); thay đổi cơ cấu cây trồng (đất nương rẫy dùng trồng cây công nghiệp); lãng phí tài nguyên cây thuốc (không biết cách bảo quản, thu hái nhiều hơn lượng cần dùng, thu hái nhầm cây thuốc,); cháy rừng (thường diễn ra định kỳ vào mùa khô ở rừng cây lá kim, và do người đi săn bắt thú đốt lửa để thu hút các loài thú móng guốc, lửa đốt rẫy lan vào rừng,); ô nhiễm môi trường (phát triển du lịch,.); thay đổi cấu trúc thu nhập của người dân (do phát triển du lịch kéo theo các sản phẩm dân tộc bị thương mại hóa, các mặt hàng mỹ nghệ làm từ cây thuốc,); chưa có chính sách quản lý hữu hiệu (nhóm cây thuốc chưa được chú trọng nên số vụ khai thác và vận chuyển cây thuốc còn ít bị bắt giữ,.). b) Nguyên nhân gián tiếp là do: nhận thức của người dân chưa cao (người dân chưa nhận thức đúng đắn về vai trò lâu dài của cây thuốc,.); diện tích rừng và đất có cây thuốc phân bố bị thu hẹp (do phát triển kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng,); đời sống còn nhiều khó khăn (thu hái cây thuốc đã trở thành sinh kế của một bộ phận người dân địa phương,); VQG Chư Yang Sin là nơi phân bố của nhiều loài cây thuốc (nơi khác không có nên người khai thác đổ dồn về đây). 3.2.3.2. Các mối đe dọa đối với tri thức sử dụng cây thuốc Qua điều tra thực tế, các mối đe dọa đối với tri thức sử dụng cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin được xác định gồm: đa dạng sinh học giảm (cây thuốc ngày càng trở nên khan hiếm, một số loài khó thu hái nên không có cây thuốc cho người dân thực hành kinh nghiệm,); tri thức sử dụng cây cỏ làm thuốc không được tư liệu hóa, thất truyền, nhiều cây thuốc sẽ trở thành cây hoang dại khi mà tri thức sử dụng nó không còn (tri thức sử dụng cây thuốc của các dân tộc bản địa sống tại VQG Chư Yang Sin chỉ được truyền khẩu mà chưa có bất kỳ ghi chép nào. Nguồn tri thức này đang dần bị 17 mai một do người già ngày càng ít dần, người trẻ lại không thiết tha với kinh nghiệm cha ông - đây được xem như là nguyên nhân chính đe dọa đến tri thức sử dụng cây thuốc); y học hiện đại phát triển (các cơ sở y tế được xây dựng khắp nơi, người dân được sử dụng miễn phí hoặc được trợ giá, nhanh khỏi,); sự phá vỡ các nguồn thông tin truyền khẩu (đài, ti vi, sách báo,... chủ yếu nhấn mạnh tri thức khoa học làm loãng nguồn thông tin truyền khẩu,...). Nếu không ngăn chặn được các mối đe dọa tới nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức sử dụng chúng sớm thì nhiều cây thuốc sẽ trở thành cây hoang dại và nhiều bài thuốc sẽ trở thành bài thuốc “chết” tro
File đính kèm:
tom_tat_luan_an_nghien_cuu_nguon_tai_nguyen_cay_thuoc_tai_vu.pdf
Thong tin dua len mang. E..pdf
Thong tin dua len mang. V.pdf