Tóm tắt Luận án Nghiên cứu phương pháp hiệu chỉnh các hệ số điều hòa cầu của mô hình trọng trường trái đất EGM2008 bằng dữ liệu trọng lực ở Việt Nam

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Nghiên cứu phương pháp hiệu chỉnh các hệ số điều hòa cầu của mô hình trọng trường trái đất EGM2008 bằng dữ liệu trọng lực ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu phương pháp hiệu chỉnh các hệ số điều hòa cầu của mô hình trọng trường trái đất EGM2008 bằng dữ liệu trọng lực ở Việt Nam
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ sẽ triển khai đo trọng lực vùng núi Việt Nam
bằng máy trọng lực hàng không TAGS AIR III GRAVITY METER (Mỹ), dự kiến hoàn
thành vào năm 2018.
Đối với công tác đo đạc trọng lực biển:
- Trong những năm 1973 – 1985, nhiều công ty dầu khí của các nước Anh, Pháp,
Italia, Na Uy, Liên Xô (cũ) đã tiến hành khảo sát địa vật lý theo các lô trên các cấu tạo
được dự đoán là triển vọng có dầu và trên toàn bộ thềm lục địa Việt Nam.
- Năm 1987, Đoàn khảo sát thuộc Bộ địa chất và khoáng sản Trung Quốc đã tiến
hành khảo sát địa vật lý trên toàn bộ vùng Biển Đông
- Tài liệu đo trọng lực và từ của tàu Gagarinsky trên toàn bộ thềm lục địa Việt
Nam theo chương trình hợp tác giữa Phân viện Hải Dương Hà Nội và Viện Hải dương
học Thái Bình Dương (Liên bang Nga) vào các năm 1990 – 1992;
- Bản đồ dị thường trọng lực Bouguer Nam Biển Đông tỷ lệ 1:1 000 000 do Trung
tâm Vật lý địa cầu ứng dụng thành lập năm 1992;
Ngoài ra, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến việc sử
dụng các dữ liệu trọng lực, mô hình trọng trường Trái đất và các dữ liệu GPS/ thủy
chuẩn để xác định mô hình geoid/quasigeoid quốc gia (Phạm Hoàng Lân (2006), Đặng
Hùng Võ, Lê Minh, Trần Bạch Giang và nnk (2012), Hà Minh Hòa (2014, 2016)).
8
1.3. Tình hình nghiên cứu cải chính các hệ số điều hòa của mô hình trọng
trƣờng toàn cầu bằng dữ liệu trọng lực
Từ nhiều nguồn dữ liệu đa dạng như trọng lực vệ tinh, trọng lực mặt đất, trọng lực
hàng không vv, được thu thập từ nhiều quốc gia, các tổ chức khoa học khác nhau trên
thế giới đã chuẩn hóa để tính toán các hệ số điều hòa cầu của mô hình trọng trường toàn
cầu cho phép mô phỏng được các đặc trưng của trường trọng lực Trái đất. Các hệ số
điều hòa cầu này được coi như tập dữ liệu mô hình hóa phục vụ cho tất cả các tính toán
Trắc địa và Địa vật lý trên nó. Như vậy mô hình EGM2008 đã được sử dụng làm cơ sở
để xây dựng các mô hình trọng trường Trái đất có độ phân giải cao. Tuy nhiên, ở nhiều
quốc gia, các dữ liệu trọng lực chi tiết (Hoặc các dữ liệu đo trọng lực bổ sung) chưa
được đưa vào để xây dựng các hệ số điều hòa cầu của mô hình này. Do đó, các tổ chức
quốc tế hoặc các quốc gia này khi có các dữ liệu trọng lực được tăng dày, bổ sung, cập
nhật đều nghiên cứu phương pháp tính toán, hiệu chỉnh các hệ số điều hòa cầu để nhận
được mô hình trọng trường Trái đất phù hợp với trọng trường Trái đất thực trên lãnh
thổ của các quốc gia được nghiên cứu. Phương pháp hiệu chỉnh các hệ số điều hòa cầu
được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là phương pháp cầu phương do Colombo O.L. đề
xuất năm 1981 (Colombo O.L. (1981)). Ngoài ra trên thế giới cũng sử dụng rộng rãi
phương pháp tính độ cao quasigeoid dựa trên các dữ liệu trọng lực theo tích phân
Stockes. Phương pháp này đòi hỏi phải có dữ liệu trọng lực trong vùng gần bán ở kính
2.5
o
- 5
o
(Featherstone W.E., Kirby J.F., Hirt C., Filmer M.S., Claessens S.J., Brown N.,
Hu G., Johnston (2011)). Tuy nhiên, đối với lãnh thổ có đặc thù dài và hẹp như ở Việt
Nam, do chưa có dữ liệu trọng lực ở các nước lân cận gồm Lào, Campuchia và Biển
Đông, cùng với việc chưa thu thập được các dữ liệu trọng lực ở các tỉnh Quảng Đông,
Quảng Tây (Trung Quốc) nên điều kiện để áp dụng phương pháp nêu trên sẽ không
thỏa mãn để tính toán độ cao quasigeoid với độ chính xác cao. Do đó, phương pháp tính
độ cao quasigeoid theo tích phân stockes không được nghiên cứu trong luận án này.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của những
đặc trưng trường trọng lực Trái đất, công tác đo trọng lực không ngừng được quan tâm.
Chúng ta đã hoàn thiện hệ thống trọng lực cơ sở Quốc gia và liên tục đo đạc bổ sung
các dữ liệu trọng lực chi tiết mới. Như vậy, với các dữ liệu trọng lực mặt đất ở Việt
Nam không ngừng được hoàn thiện và bổ sung qua từng giai đoạn, trên cơ sở sử dụng
các hệ số điều hòa toàn cầu của các mô hình trọng trường Trái đất, ví dụ EGM2008 có
các tham số trọng trường cơ bản của Trái đất và các đặc trưng của trường trọng lực
9
sóng dài, chúng ta cần phải nghiên cứu tính toán cải chính các hệ số điều hòa cầu của
mô hình trọng trường Trái đất EGM bằng các dữ liệu trọng lực mặt đất ở Việt Nam sao
cho mô hình trọng trường Trái đất phù hợp với trọng trường thực trên lãnh thổ Việt
Nam phục vụ các công tác tính toán Trắc địa và Địa vật lý. Trong đó, sự phức tạp của
việc giải quyết bài toán hiệu chỉnh các hệ số khai triển điều hòa cầu của mô hình trọng
trường Trái đất EGM dựa trên cơ sở dữ liệu dị thường trọng lực quốc gia nằm ở chỗ
quá trình hiệu chỉnh tất cả các hệ số khai triển điều hòa cầu của mô hình trọng trường
Trái đất EGM được lặp lại theo các vĩ độ trắc địa lần lượt từ nhỏ đến lớn theo các đỉnh
của các ô chuẩn dị thường trọng lực. Điều này làm phức tạp hóa việc tổ chức tính toán
các hàm Legendre kết hợp và làm tăng thời gian tính toán. Đối với mô hình trọng
trường Trái đất có bậc khai triển điều hòa cầu đến 2190 (ví dụ mô hình EGM2008) sẽ
có 2.399.145 hệ số khai triển điều hòa. Đây được coi là 1 trong những bài toán xử lý
Trắc địa cao cấp khó phức tạp, bởi vì nó đòi hỏi sử dụng các phép biến đổi toán học tối
ưu, chính xác và thực hiện trên một tập dữ liệu rất lớn với số lượng phép tính, phương
trình và ẩn số là gần như không giới hạn.
Khi xây dựng mô hình EGM2008, Cơ quan NGA của Mỹ đã sử dụng mô hình số
địa hình DTM2006.0 độ phân giải 5’ x 5’ là mặt địa hình trung bình được làm trơn để
quy chiếu các giá trị dị thường trọng lực mặt đất lên đó. Trong khi đó mô hình số địa
hình SRTM 30” x 30” được sử dụng làm mặt địa hình thực. Các mặt địa hình thực và
địa hình trung bình (được làm trơn) được sử dụng để xác định dị thường trọng lực RTM
trong các ô chuẩn 5’x 5’ phục vụ việc tính toán các hệ số điều hòa cầu của mô hình
EGM2008.
Theo NGA, Việt Nam ở khu vực trọng lực Fill-in, tức là dữ liệu trọng lực mặt đất
ở Việt Nam hầu như không được đưa vào để tham gia tính các hệ số điều hòa cầu. Đây
là nguyên nhân chính khiến cho mô hình geoid EGM2008 ở khu vực Việt Nam có độ
chính xác không cao. Như vậy, để đưa các dữ liệu trọng lực chi tiết mặt đất ở Việt Nam
vào để tính toán hiệu chỉnh lại các hệ số điều hòa cầu của mô hình geoid EGM2008,
chúng ta cần đồng nhất về cơ sở toán học của dữ liệu dị thường trọng lực chi tiết mặt
đất ở Việt Nam với dữ liệu dị thường trọng lực dùng để xây dựng EGM2008
10
CHƢƠNG 2
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP TÍNH
DỊ THƢỜNG TRỌNG LỰC FAYE VÀ RTM
PHỤC VỤ XÂY DỰNG MÔ HÌNH QUASIGEOID ĐỘ CHÍNH XÁC CAO
TRÊN CƠ SỞ KẾ THỪA MÔ HÌNH EGM2008
2.1. Cơ sở khoa học và ý nghĩa của các dạng dị thƣờng trọng lực trong Trắc
địa vật lý
Theo (Hà Minh Hòa (2014)), dị thường trọng lực Faye tại một điểm đo trọng lực
nhận được từ dị thường không khí tự do nhờ số hiệu chỉnh bề mặt đất (hay còn gọi là số
hiệu chỉnh Faye) để loại bỏ ảnh hưởng của khối lượng vật chất địa hình lồi lõm xung
quanh so với mặt phẳng nằm ngang đi qua điểm trọng lực. Đối với phương pháp xấp xỉ
mặt phẳng, trong các tài liệu (Moritz, H. (1980); Forsberg R. (1984)) đã đưa ra biểu
thức xác định số hiệu chỉnh bề mặt đất ở dạng sau:
∬
(
)
ở đây G - hằng số trọng trường Newton; cr - mật độ vật chất của lớp vỏ Trái đất
(thường được nhận bằng 2,67 g/cm3);
- độ cao chuẩn của điểm trọng lực P; - độ
cao chuẩn của điểm chạy (điểm lấy tích phân); r - khoảng cách từ điểm P đến điểm
chạy; - vùng lấy tích phân.
Đối với vùng trung du có độ cao địa hình lớn hơn 200m, bán kính vùng lấy tích
phân bằng 50km, còn đối với vùng núi là 200 km.
Theo (Hà Minh Hòa. (2016)), do ở Việt Nam sử dụng hệ độ cao chuẩn, nên các dữ
liệu dị thường trọng lực được sử dụng chủ yếu để tính toán các giá trị dị thường độ cao
(độ cao quasigeoid) phục vụ việc xây dựng mô hình quasigeoid quốc gia độ chính xác
cao. Chúng ta không quan tâm đến việc tính toán độ cao geoid để phục vụ việc xây
dựng mô hình geoid quốc gia độ chính xác cao. Do đó các giá trị dị thường Bouguer
chủ yếu được sử dụng để nội suy chêm dầy các giá trị dị thường Faye (hoặc dị thường
không khí tự do) ở các khu vực có ít dữ liệu trọng lực khi tính đến sự thay đổi tương đối
đồng đều của các giá trị dị thường Bouguer. Đối với lĩnh vực địa chất, các giá trị dị
thường Bouguer được sử dụng để nghiên cứu các cấu trúc sâu của vỏ Trái đất. Đối với
khu vực rừng núi cao hiểm trở, người ta sử dụng dị thường trọng lực RTM thay cho dị
thường Faye.
11
Về mặt lý thuyết, các giá trị dị thường trọng lực được sử dụng để giải quyết bài
toán biên hỗn hợp của Trắc địa vật lý. Đối với các tiếp cận của Molodenxkii M.X., mặt
biên là mặt telluroid, nhưng thực tế bài toán biên hỗn hợp được giải quyết trên mặt vật
lý Trái đất. Theo quy định, để các giá trị dị thường trọng lực là các hàm điều hòa và các
hàm giải tích sao cho chúng có các đạo hàm riêng các bậc trên mặt biên và trong không
gian ngoài mặt biên, các khối lượng vật chất không được tồn tại trên mặt biên.
Theo tài liệu (Moritz. (1984)), các hằng số trọng trường địa tâm GM của các
ellipsoid quy chiếu quốc tế như GRS80, WGS84, PZ – 90.11 đều bao gồm các khối
lượng vật chất khí quyển. Do đó chúng ta bắt buộc phải loại bỏ ảnh hưởng của khối
lượng vật chất khí quyển trong các giá trị dị thường không khí tự do. Đây cũng là vấn
đề đầu tiên cần giải quyết để hoàn thiện Quy định đo trọng lực chi tiết ở Việt Nam.
Khối lượng vật chất địa hình lồi lõm xung quanh điểm trọng lực so với mặt phẳng
nằm ngang đi qua điểm này cũng là một dạng khối lượng vật chất cần loại bỏ, đặc biệt
các khu vực rừng núi nhờ hiệu chỉnh Faye. Vấn đề tiếp theo là xây dựng phương pháp
triển khai tính toán số hiệu chỉnh Faye (2.10) dựa trên mạng lưới (grid) các ô chuẩn
hình vuông của mô hình số địa hình DTM.
Hình 2.3. Các điểm P1 và P2 trên mặt địa hình thực (Simberov B.P. (1975);
Ogorodova L.V., Simberov B.P., Yuzephovich A.P. (1978)).
Tuy nhiên, ở các khu vực rừng núi địa hình hiểm trở, núi cao vực sâu bản thân số
hiệu chỉnh Faye hoặc không thể lấp đầy khối lượng vật chất địa hình lõm bằng khối
lượng vật chất địa hình lồi, ví dụ tại điểm trọng lực P1 trên hình 2.3 và dẫn đến việc
thiếu khối lượng vật chất hoặc không thể khắc phục sự thừa khối lượng vật chất địa
hình lồi để lấp đầy địa hình lõm, ví dụ tại điểm P2 trên hình 2.3.
Việc thiếu hoặc thừa các khối lượng vật chất địa hình xung quanh điểm trọng lực
làm dị thường Faye biến đổi không “trơn”, tức không phải là hàm điều hòa và giải tích.
Để khắc phục vấn đề nêu trên, trong các tài liệu (Forsberg, R. and Tsherning, C.C.
(1981); Forsberg R. (1984)) đã đề xuất phương pháp mô hình mặt đất còn dư RTM
(Residial Terrain Model) để triển khai lý thuyết của Molodenxkii M.X. trong thực tế,
P1
P2
Mặt địa hình thực
12
theo đó thay mặt địa hình thực bằng địa hình trung bình của Trái đất hay còn được gọi
là mặt quy chiếu. Như vậy, chúng ta lại phải giải quyết bài toán xác định dị thường
RTM trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) trọng lực quốc gia phục vụ việc xây
dựng mô hình quasigeoid quốc gia độ chính xác cao.
Theo (Hà Minh Hòa. (2016)), khi xác định dị thường trọng lực RTM, chúng ta
hoàn toàn có thể sử dụng mô hình số địa hình độ phân giải cao làm mặt địa hình thực,
còn sử dụng mô hình số địa hình độ phân giải thấp hơn được làm trơn dùng làm mặt
quy chiếu hay còn gọi là mặt địa hình trung bình (Xem hình 2.9), giống như cách mà
NGA làm với EGM2008. Trong thực tế mô hình mặt địa hình thực được đặc trưng bởi
mô hình số địa hình DTM độ phân giải cao, còn mặt địa hình trung bình được làm trơn
được đặc trưng bởi mô hình số địa hình DTM có độ phân giải thấp hơn. Khi xây dựng
mô hình trọng trường Trái đất EGM2008, theo tài liệu (Pavlis, N.K., Factor J.K. and
Holmes, S.A. (2007)), mặt địa hình trung bình được tạo bởi mô hình địa hình mặt đất
toàn cầu DTM2006.0 có độ phân giải 5’x5’. Mặt địa hình thực được tạo bởi mô hình
địa hình mặt đất toàn cầu 30”x30” (Mô hình này được xây dựng dựa trên các dữ liệu
SRTM). Dị thường trọng lực RTM được sử dụng để khai triển các hệ số điều hòa của
thế trọng trường Trái đất đến bậc 2160.
2.2. Các bƣớc tính toán dị thƣờng trọng lực không khí tự do, Faye và RTM
Biểu thức tính dị thường không khí tự do có dạng (Hà Minh Hòa. (2016))
(2.13)
Trong đó: - gia tốc lực trọng trường đo được tại điểm M; - gia tốc lực trọng
trường chuẩn:
(
)
Trong đó: - giá trị gia tốc lực trọng trường chuẩn trên mặt ellipsoid; - số
cải chính dị thường không khí tự do;
- Độ cao chuẩn của điểm M; - số cải chính
vào gia tốc lực trọng trường do khối lượng vật chất khí quyển.
(
)
Biểu thức tính dị thường Faye có dạng (Hà Minh Hòa. (2016))
Trong đó: - số cải chính dị thường trọng lực Faye
Sử dụng phương pháp tích phân trên mặt phẳng, chia miền địa hình lồi lõm xung
13
quanh điểm xét thành n ô chuẩn có tọa độ các đỉnh như hình 2.7
Hình 2.7. Tích phân trên mặt phẳng
Với ô chuẩn thứ i, chúng ta tính được số cải chính Faye tương ứng là:
( ̅
)
||
|
|
Tổng hợp số cải chính Faye của n ô chuẩn quanh điểm xét là:
∑
Biểu thức tính dị thường RTM có dạng (Hà Minh Hòa. (2016))
(
)
Trong đó
và
là độ cao chuẩn của điểm tính ứng với mặt địa hình thực và
mặt địa hình tham chiếu làm trơn như hình 2.9
Hình 2.9. Quan hệ giữa địa hình thực và địa hình trung bình
𝐻𝑖
𝛾
x
y
O
P xP
yP
x1,y1
x2,y2
x1,y2
x2,y1
1, 1 1, 2
2, 1 2, 2
Ô chuẩn thứ i
Mặt địa hình thực
Mặt địa hình trung bình
Mặt quasigeoid
P
Pref
H
P
𝐻𝑃
𝛾
𝐻𝑟𝑒𝑓
𝛾
14
CHƢƠNG 3
NGHIÊN CỨU CẢI CHÍNH CÁC HỆ SỐ ĐIỀU HÒA CẦU
CỦA MÔ HÌNH TRỌNG TRƢỜNG TRÁI ĐẤT EGM2008
BẰNG DỮ LIỆU DỊ THƢỜNG TRỌNG LỰC CHI TIẾT CỤC BỘ
3.1. Nghiên cứu sử dụng các kết quả giải bài toán biên của Molodenxkii M.X.
trong Trắc địa vật lý
Trong bài toán xác định các đặc trưng cơ bản của trọng trường Trái đất, các dị
thường trọng lực Δg được xác định tương ứng với các mặt biên, theo đó giá trị của gia
tốc lực trọng trường g được xác định trên mặt vật lý của Trái đất phải được chuyển
xuống mặt biên. Theo (Hà Minh Hòa (2014))
(
)
ở đây: - thế nhiễu tại điểm M; - véc tơ bán kính; - dị thường trọng lực
tại điểm M; - thế trọng trường chuẩn của mặt ellipsoid; - thế trọng trường chuẩn
của mặt Geoid. Chúng ta ký hiệu vế phải của biểu thức (3.1) ở dạng sau:
* Phƣơng pháp thƣ nhất: Xác định độ cao quasigeoid theo dữ liệu trọng lực, sau
khi giải phương trình (3.1) và lưu ý (3.2), nhận được công thức tích phân Stokes đối với
thế nhiễu T (Hofmann Wellenhof, B., Moritz H., (2007)):
∬
ở đây là hàm Stokes có dạng:
21( ) 6.sin 1 5.cos 3.cos .ln(sin sin )
2 2 2
sin
2
S
ở đây là khoảng cách cầu từ điểm chạy M trong miền đến điểm tính
Từ (3.3) chúng ta nhận được biểu thức tính giá trị quasieoid theo công thức
Stokes:
∬
Theo (Hà Minh Hòa (2014)) để xác định giá trị geoid N với độ chính xác cao,
chúng ta phải có các giá trị dị thường trọng lực độ chính xác cao với mật độ cần thiết
15
bao phủ toàn cầu, tức miền phải bao trùm toàn bộ Trái đất. Tuy nhiên, hiện nay công
tác đo đạc trọng lực ở nhiều quốc gia chưa đáp ứng được các yêu cầu trên. Do đó, trên
thực tế chúng ta chỉ có dữ liệu trọng lực trong vùng gần xung quanh điểm M với
khoảng cách cầu tối đa . Do đó phương pháp này chỉ được áp dụng cho một số khu
vực thích hợp
*Phƣơng pháp thứ hai: việc xác định thế nhiễu T của Trái đất theo phương trình
điều kiện biên (3.1). Theo (Hà Minh Hòa (2014)), thế nhiễu T( ,B,L) được khai triển
theo theo các hàm điều hòa cầu với các hệ số ̅ ̅ của mô hình khai triển điều
hòa thế trọng trường Trái đất như sau:
.)(sin.sin.cos...
)(sin...
)(sin...),,(
2 1
,,,
120,12
1
12
2
)0(
20,2
1
2
n m
mnmnmn
n
e
nn
n
n
e
nnn
n
n
e
BPmLSmLC
aGM
BPC
aGM
BPjC
aGM
LBT
(3.5)
ở đây - bán kính bán trục lớn của ellipsoid WGS84; - bán kính vectơ địa tâm của
điểm; GM - Hằng số trọng trường Trái đất;
)0(
2n
j - hệ số vùng; dị thường trọng lực
được gọi là dị thường trọng lực thuần nhất.
Theo (Hà Minh Hòa (2014)), lấy đạo hàm (3.5) theo được
, thay
và T vào
(3.1), chúng ta được biểu thức tính theo các hệ số điều hòa cầu
∑ (
)
∑( ̿ ̿ ) ̅
Trong thực tế xây dựng mô hình trọng trường EGM hiện nay, bên cạnh việc sử
dụng các dữ liệu vệ tinh Altrimetry như: TOPEX/POSEIDON, ERS-1, GEOSAT,
EnviSAT, trong thời gian qua người ta không ngừng đưa lên quỹ đạo thấp các vệ tinh
quan trắc trọng trường Trái đất hiện đại khác như GRACE, GOCE, CHAMP vv ,
đồng thời các quốc gia cũng tăng cường phủ trùm dữ liệu trọng lực hàng không, tàu
biển và mặt đất, do vậy cho phép xây dựng mô hình trọng trường Trái đất dưới dạng
các hệ số điều hòa cầu với bậc tối đa lên đến 2190 (tương ứng với các ô chuẩn 5 phút và
trong tương lai có thể bậc tối đa còn tăng lên nữa, tức mật độ dữ liệu tương ứng với
bước sóng geoid còn tiếp tục giảm). Tuy nhiên Việt Nam chúng ta ở khu vực Fill-in,
16
các dữ liệu trọng lực quốc gia không được tham gia vào việc xây dựng mô hình trọng
trường Trái đất dưới dạng các hệ số điều hòa cầu, cùng với đó là đặc thù lãnh thổ dài và
hẹp, khó khăn trong việc thu thập dữ liệu bên ngoài quốc gia, do vậy luận án này đã
chọn cách tiếp cận của Molodenxkii M.X. để nghiên cứu phương pháp và xây dựng
thuật toán theo Colombo O.L. nhằm đưa được dữ liệu trọng lực chi tiết của Việt Nam
vào mô hình trọng trường Trái đất dưới dạng các hệ số điều hòa cầu, qua đó kế thừa
được các dữ liệu trọng lực vệ tinh ở bước sóng dài bậc điều hòa thấp (từ 2 đến 180)
đồng thời cải chính các bước sóng ngắn ở bậc cao sao cho mô hình trọng trường Trái
đất dưới dạng các hệ số điều hòa cầu mới sẽ phù hợp với các đặc trưng dị thường trọng
lực chi tiết ở Việt Nam.
3.2. Các bƣớc tổ chức tối ƣu hóa thuật toán để xây dựng Modul chƣơng trình
Đối với việc xác định ̿ ̿ theo giá trị dị thường trọng lực , trong tài liệu
(Erol B. (2012)) đã biểu diễn các hệ số ̿ ̿ dưới dạng sau:
{
̿
̿
}
∬
(
)
{
}
̅
Chúng ta sẽ nghiên cứu đưa ra giải pháp tối ưu hóa thuật toán Colombo O.L. để
giải tích phân này (Hà Minh Hòa, Nguyễn Tuấn Anh (2015)).
- Sử dụng giá trị dị thường trọng lực trong một khu vực nhỏ để hiệu chỉnh các hệ
số điều hòa của một mô hình trọng trường Trái đất EGM đã có sẵn bằng cách xác định
hiệu ̅̅ ̅̅ ̅ ̅̅̅̅ , ở đây là giá trị dị thường trọng lực từ mô hình EGM.
- Tổ chức tính toán tối ưu hàm Legendre theo phương pháp truy hồi và chuẩn hóa
chúng nhằm giảm thời gian tính toán và bộ nhớ của máy tính;
- Tối ưu hóa sơ đồ tính toán theo sự tăng dần của các vĩ độ trắc địa theo các đỉnh ô
chuẩn của mạng lưới (grid) trong CSDL dị thường trọng lực.
Trong CSDL dị thường trọng lực, các ô chuẩn với kích thước ,LBx thường là
3’ x 3’ hoặc 5’ x 5’, được phân bố với M ô chuẩn theo vĩ tuyến và N ô chuẩn theo kinh
tuyến. Chúng ta sắp xếp thứ tự của các ô chuẩn dị thường trọng lực được đưa vào tính
toán theo thứ tự tăng dần của vĩ độ trắc địa và kinh độ trắc địa của đỉnh cơ sở của mỗi ô
chuẩn. Khi ký hiệu (i,j) là số hiệu của ô chuẩn, đỉnh cơ sở của ô chuẩn (i,j) là đỉnh có
đồng thời vĩ độ trắc địa
iB và kinh độ trắc địa jL không lớn hơn so với các tọa độ trắc
địa của 3 đỉnh còn lại. Khi đó, đối với toàn bộ CSDL dị thường trọng lực chỉ cần các
chỉ số i = 1,2,...,N và j = 1,2,...,M.
17
Khi đó ta đặt:
)1.(..4
2
nGM
a
K en
(3.51)
,
).(sin
.
,,
,
n
jiimn
n
e
ii
mn
q
BP
a
(3.52)
.<1
,<3/
,3/0
max
maxmax
max
2
nnkhi
nnnkhi
nnkhi
q n
n
n
(3.53)
ở đây
n - tham số Pellinen L.P. được tính theo biểu thức Pellinen L.P hoặc biểu thức
Meisl P. hoặc biểu thức Sjopberg L. E. (xem chi tiết trong Hà Minh Hòa (2014)),
maxn - bậc khai triển cực đại của mô hình EGM (đối với mô hình EGM200
nmax=2190), diện tích ô chuẩn (i,j) được tính theo biểu thức:
File đính kèm:
tom_tat_luan_an_nghien_cuu_phuong_phap_hieu_chinh_cac_he_so.pdf

