Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 9

Trang 9

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 27 trang nguyenduy 01/10/2025 100
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam

Tóm tắt Luận án Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam
háp luật. 
2.2. Lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp 
2.2.1. Cơ sở xây dựng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp 
Sự hiện hữu của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp mang tính cấp thiết và 
cũng là yêu cầu khách quan, nhằm đảm bảo lợi ích của đất nước, của NSDĐ và cho 
cả người bỏ vốn đầu tư. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, đây là nội dung vừa 
mang tính hành chính; đồng thời mang tính thị trường. Bên cạnh việc điều chỉnh 
bằng các quy phạm pháp luật, còn cần xem xét áp dụng cả những quy phạm đạo đức, 
tập quán sinh hoạt văn hóa,...; trong đó quy phạm pháp luật là chủ yếu. 
2.2.2. Nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp 
Luận án đã đưa ra các nội dung cần xem xét, hoàn thiện trong pháp luật về 
thu hồi đất nông nghiệp như sau: (i) Quy định về quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch 
sử dụng đất nông nghiệp - cơ sở pháp lý để thu hồi đất nông nghiệp; (ii) Quy định về 
nội dung, trình tự thủ tục thu hồi đất nông nghiệp; (iii) Quy định về bồi thường, hỗ 
trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; (iv) Quy định về khiếu nại khi Nhà nước 
thu hồi đất nông nghiệp. 
2.3. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp giai đoạn từ năm 1945 đến 
trước ngày 01/7/2004 
2.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980 
2.3.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến trước ngày 01/7/2004 (ngày Luật Đất đai 
năm 2003 có hiệu lực thi hành) 
2.4. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp của một số nước và những gợi 
mở đối với Việt Nam 
2.4.1. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp của Cộng hòa Pháp 
2.4.2. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp của Úc 
2.4.3. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp của Cộng hòa nhân dân 
Trung Hoa 
2.4.4. Một số gợi mở đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoàn 
thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp 
Thứ nhất, thu hồi đất trong đó có đất nông nghiệp được quy định trong Hiến 
pháp, hoặc trong văn bản Luật, vì bản chất thu hồi đất là thu hồi tài sản của NSDĐ, 
cho dù sử dụng vào mục đích gì theo nhu cầu của Nhà nước. 
10 
Thứ hai, quy định về trình tự thủ tục thu hồi đất, trong đó có đất nông nghiệp 
được pháp luật Cộng hòa Pháp, Úc quy định thật chặt chẽ trên cơ sở công khai, minh 
bạch. Thời gian để tiến hành xác định truất hữu vì mục đích công cộng tương đối 
dài, có khi đến một năm qua nhiều giai đoạn khác nhau. Người có đất bị thu hồi có 
quyền phản đối (khiếu nại). Việc xử lý các bất đồng được tiến hành giải quyết trước 
khi thu hồi đất. 
Thứ ba, việc bồi thường tài sản là đất đai và các tài sản khác trên đất đều do 
NSDĐ sau này đảm nhận, nghĩa là không sử dụng từ nguồn ngân sách nhà nước. 
Đây là quy định phù hợp, vì nếu kinh phí bồi thường từ nguồn chi ngân sách thì bản 
chất là đầu tư công, phải đối mặt với nhiều rủi ro, nhất là các dự án phát triển kinh 
tế. 
Thứ tư, pháp luật các nước nêu trên đều tính giá bồi thường theo giá thị 
trường tại thời điểm thu hồi đất. Ngoài ra còn xem xét đến các khoản bồi thường phụ 
có liên quan đến việc thu hồi đất như: việc làm, di chuyển hoa màu, Đặc biệt, 
pháp luật Trung Quốc quy định việc bồi thường và hỗ trợ đời sống đối với người có 
đất nông nghiệp bị thu hồi dựa vào giá trị sản lượng cây trồng trên đất bị thu hồi. 
Nội dung này đã từng được quy định trong nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam từ 
năm 1959, tuy nhiên về sau không được kế thừa, phát triển. Đây là quy định phù hợp 
với kỳ vọng của NSDĐ nông nghiệp khi bỏ vốn đầu tư. 
Chương 3 
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT 
NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
3.1. Quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất - Cơ sở pháp lý ban 
đầu để Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 
3.1.1. Quy định về vai trò của quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng 
đất 
QH, KHSDĐ được xác định là cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể khi 
tham gia quan hệ pháp luật đất đai tuân theo. 
3.1.2. Quy định về nguyên tắc lập, công bố quy hoạch sử dụng đất, kế 
hoạch sử dụng đất 
Thứ nhất, QH, KHSDĐ được lập trên nguyên tắc từ tổng thể đến chi tiết; 
QH, KHSDĐ của cấp dưới phải phù hợp với QH, KHSDĐ của cấp trên; KHSDĐ 
phải phù hợp với QH đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, xét 
duyệt. 
Thứ hai, vấn đề công khai thông tin được quy định với nội dung: thời điểm, 
thời hạn công bố công khai QH, KHSDĐ được thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ 
ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt. 
3.1.3. Quy định về thẩm quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng 
đất 
Quy định về thẩm quyền quyết định QH, KHSDĐ cho thấy, thiết chế dân 
11 
chủ đại diện đã được thể hiện rõ nét về vai trò của Quốc hội ở tầm quy hoạch cấp 
quốc gia; còn đối với quy hoạch ở địa phương, trong từng lĩnh vực cụ thể cần có sự 
tham gia của HĐND, pháp luật chưa quy định thẩm quyền của họ “ngang tầm” với 
quyền Hiến định. 
3.2. Quy định về nội dung; trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp 
3.2.1.. Quy định về các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp 
3.2.1.1. Nội dung các trường hợp thu hồi đất 
Thứ nhất, kế thừa Điều 89 LĐĐ năm 2003, Điều 61 LĐĐ năm 2013 đã quy 
định các trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh. 
Thứ hai, thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công 
cộng được quy định tại Điều 62 LĐĐ năm 2013 trên cơ sở kế thừa, sửa đổi, bổ sung 
từ các Điều: 40, 90, 91, 92 LĐĐ năm 2003 và luật hóa một số quy định rải rác trong 
Điều 36 NĐ 181/2004/NĐ-CP, Điều 34 NĐ 84/2007/NĐ-CP, cụ thể bao gồm các 
loại dự án do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ tướng Chính phủ chấp 
thuận, quyết định đầu tư hoặc do HĐND cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất. 
Thứ ba, thu hồi đất do hành vi vi phạm pháp luật về đất được quy định tại 
Điều 64 LĐĐ năm 2013 trên cơ sở kế thừa một số quy định tại Khoản 3, 4, 5, 6, 9, 
11, 12 Điều 38 LĐĐ năm 2003. 
Thứ tư, thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện 
được quy định tại Điều 65 LĐĐ năm 2013 trên cơ sở kế thừa một số quy định tại 
Khoản 2, 7, 8 10 Điều 38 LĐĐ năm 2003. 
Thứ năm, các căn cứ pháp lý để Nhà nước tiến hành quyết định thu hồi đất 
đã được quy định trong LĐĐ năm 2013 tùy theo từng trường hợp cụ thể. 
Vấn đề đặt ra là, các căn cứ pháp lý khác được quy định rải rác trong nhiều 
điều luật, nên khi áp dụng pháp luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể vì yếu 
tố chủ quan hay khách quan mà chưa viện dẫn đầy đủ, cần được tập hợp lại nhằm 
đảm bảo tính pháp chế trong quá trình triển khai thi hành LĐĐ năm 2013. 
3.2.1.2. Về một số điểm tiến bộ, bất cập trong nội dung các trường hợp thu 
hồi đất 
Về nội dung các trường hợp thu hồi đất, trong đó có thu hồi đất nông nghiệp 
nói trên, theo tác giả, đã thể hiện một số điểm tiến bộ cũng như có một số nội dung 
bất cập cần tiếp tục đặt ra như sau: 
Thứ nhất, về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc 
phòng, an ninh 
Các trường hợp thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh được quy 
định cụ thể trong Luật và không ủy quyền cho Chính phủ tiếp tục quy định đất xây dựng 
các công trình quốc phòng, an ninh khác như Điểm l Khoản 1 Điều 89 LĐĐ năm 
2003 là phù hợp, nhằm khẳng định địa vị pháp lý của Quốc hội. 
12 
Thứ hai, về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã 
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng 
(i) LĐĐ năm 2013 đã quy định về vai trò của HĐND cấp tỉnh trong việc 
chấp thuận các dự án xây dựng tại địa phương mà phải thu hồi đất. 
(ii) Việc quy định không thu hồi đất đối với các dự án khoáng sản được cơ 
quan có thẩm quyền cấp phép, trong trường hợp khai thác khoáng sản làm vật liệu 
xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu vực có khoáng sản phân 
tán, nhỏ lẻ và khai thác tận thu khoáng sản là phù hợp. 
(iii) Dự án cải tạo chỉnh trang khu đô thị là dự án cải tạo, nâng cấp mặt ngoài 
hoặc kết cấu các công trình trong khu vực đô thị hiện hữu nhưng không làm thay đổi 
quá 10% các chỉ tiêu sử dụng đất của khu vực”. Điều này cần đặt ra khi quy hoạch, 
triển khai dự án sao cho khách quan, hài hòa lợi ích của các cư dân trong khu vực. 
Thứ ba, về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất 
đai 
(i) Về sử dụng đất không hiệu quả 
Nhà nước không cần thiết phải sử dụng quyền lực công để QĐ thu hồi đất 
đối với trường hợp trên. Do vậy nội dung này đã bị bãi bỏ, không đưa vào LĐĐ năm 
2013 là phù hợp. 
(ii) Về sử dụng đất không đúng mục đích 
Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp: ‘Sử dụng đất không đúng mục đích 
đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận QSDĐ và đã bị xử phạt vi phạm hành 
chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm” là phù hợp. 
(iii) Về người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước 
Điều 170 LĐĐ năm 2013 đã kế thừa Điều 107 LĐĐ năm 2003 quy định, 
NSDĐ có các nghĩa vụ chung. Theo đó, những nội dung nêu trên bị trùng lặp về 
hành vi vi phạm cần được xem xét, quy định lại, nhằm thuận tiện trong việc áp dụng 
cho cả NSDĐ và cơ quan quản lý hành chính nhà nước. 
Bên cạnh đó, với quy định: “Người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ 
đối với Nhà nước và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không chấp hành” là 
điểm tiến bộ, tạo cho NSDĐ có điều kiện khắc phục hậu quả, thực hiện nghĩa vụ của 
mình. 
(iv) Về người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất 
Pháp luật quy định thu hồi đất do hành vi làm ô nhiễm đất mà chưa dự liệu 
hết các nguyên nhân gây ra là chưa phù hợp. 
(v) Về nội dung đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm 
quyền 
Pháp luật hiện hành không buộc việc gánh chịu hậu quả bất lợi trong trường 
hợp trên thuộc về NSDĐ, mà có sự chia sẻ trách nhiệm, tìm giải pháp phù hợp cho 
cả hai bên: Nhà nước và NSDĐ. 
3.2.2. Quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp 
Thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp được quy định tại Điều 66 LĐĐ năm 
13 
2013 trên cơ sở kế thừa, bổ sung, sửa đổi Điều 44 LĐĐ năm 2003. 
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình trong điều hành 
kinh tế - xã hội, đã xảy ra việc áp dụng không đúng thẩm quyền được giao, thể hiện 
qua một số trường hợp đã diễn ra trong thực tế qua một số vụ việc. 
3.2.3. Quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp 
3.2.3.1. Quy định về thông báo thu hồi đất nông nghiệp 
Việc bổ sung nội dung điều tra, khảo sát, đo đạc kiểm đếm trong thông báo 
thu hồi đất là phù hợp, nhằm khắc phục tình trạng một số trường hợp đã xảy ra 
người dân có đất bị thu hồi không hợp tác với Nhà nước. 
3.2.3.2. Quy định về kiểm đếm để lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định 
cư 
Điểm mới trong LĐĐ năm 2013 là đưa quy định kiểm đếm bắt buộc và quy 
trình cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc. Trong khi đó, nội dung này chưa được nêu 
trong LĐĐ năm 2003, mà chỉ được đề cập đến trong Điểm a Khoản 1 Điều 56 Nghị 
định 84/2007/NĐ-CP, nhưng chỉ mang tính liệt kê, chưa đi sâu vào mô tả công việc. 
3.2.3.3. Quy định về các nguyên tắc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành 
quyết định kiểm đếm bắt buộc 
3.2.3.4. Quy định về các điều kiện tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành 
quyết định kiểm đếm bắt buộc 
Trong thực tế chính quyền các cấp đã áp dụng chưa đúng với các quy định 
pháp luật, đảm bảo quyền lợi của NSDĐ, thể hiện ở một số nội dung sau: 
Thứ nhất, chưa đảm bảo trình tự, thủ tục trước khi ban hành quyết định thu 
hồi đất nông nghiệp 
Thứ hai, thu hồi đất không ban hành quyết định hành chính 
3.2.3.5. Quy định về cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất nông nghiệp 
Quy định nội dung này là phù hợp, đảm bảo trong việc thi hành công vụ và 
nghĩa vụ của NSDĐ. 
3.3. Quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông 
nghiệp 
3.3.1. Quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 
Thứ nhất, về khái niệm “Bồi thường về đất” 
Theo Khoản 12 Điều 3 LĐĐ năm 2013 thì Bồi thường về đất là việc Nhà 
nước trả lại giá trị QSDĐ đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất. Tuy 
nhiên, chúng ta có thể thấy rằng, nội hàm của “bồi thường về đất” bị hạn hẹp hơn so 
với “bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”, vì ngoài việc bồi thường về đất, Nhà 
nước còn phải bồi thường các loại tài sản hình thành hợp pháp trên đất nữa. Nếu 
theo cách hiểu trên, pháp luật còn phải tiếp tục giải thích: “bồi thường về tài sản trên 
đất” là gì, song nội dung này chưa thấy đề cập đến. 
Thứ hai, về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất 
Các nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất gồm có: (i) Phải hội đủ 
các điều kiện được bồi thường theo quy định pháp luật. (ii) Việc bồi thường được 
14 
thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi. (iii) Việc 
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, 
công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật. 
Thứ ba, về điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông 
nghiệp vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc 
gia, công cộng 
Nội dung này được quy định tại Điều 75 LĐĐ năm 2013 bao gồm các nội 
dung: (i) Đối với NSDĐ là hộ gia đình, cá nhân có GCN hoặc có đủ điều kiện để 
được cấp GCN; (ii) Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất 
mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có GCN hoặc có đủ điều kiện 
để được cấp GCN QSDĐ, quyền tài sản khác gắn liền với đất theo quy định pháp 
luật mà chưa được cấp; (iii) Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng 
đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; nhận thừa kế QSDĐ, 
nhận chuyển nhượng QSDĐ mà tiền sử dụng đất đã nộp, tiền nhận chuyển nhượng 
đã trả không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, có GCN hoặc có đủ điều kiện 
được cấp GCN, quyền tài sản khác gắn liền với đất theo quy định pháp luật mà chưa 
được cấp. 
Thứ tư, về bồi thường về đất 
Nội dung này được quy định tại Điều 77, Điều 78 LĐĐ năm 2013 trên cơ sở 
kế thừa, sửa đổi, bổ sung luật hóa Điều 16 NĐ 69/2009/NĐ-CP và Điều 12 NĐ 
197/2004/NĐ-CP bao gồm các vấn đề sau: (i) Một là, bồi thường về đất đối với 
người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân; (ii) Bồi thường về đất đối với người sử 
dụng đất là tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo. 
Thứ năm, về chi phí đầu tư vào đất còn lại 
Chi phí đầu tư vào đất còn lại giải thích tại Khoản 13 Điều 3 LĐĐ năm 2013 
và được quy định chi tiết tại Khoản 2 Điều 3 NĐ 47/2014/NĐ-CP. Theo đó, chi phí 
đầu tư vào đất còn lại là các chi phí thực tế người sử dụng đất đã đầu tư vào đất để 
sử dụng theo mục đích được phép sử dụng bao gồm: chi phí san lấp mặt bằng và một 
số chi phí khác liên quan trực tiếp có căn cứ chứng minh đã đầu tư vào đất, mà đến 
thời điểm Nhà nước thu hồi đất còn chưa thu hồi được. Tuy nhiên, cách tính toán 
theo quy định hiện hành vẫn chưa đầy đủ, đảm bảo quyền lợi của NSDĐ. 
Thứ sáu, về xác định giá trị để bồi thường tài sản là cây trồng trên đất, vật 
nuôi là thủy sản 
Quy định về bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi được quy định tại Điều 
90 LĐĐ năm 2013 trên cơ sở luật hóa Điều 24 NĐ 197/2004/NĐ-CP. Trong thực tế, 
việc xác định giá trị vườn cây đối với cây lâu năm đã thể hiện một số bất cập, chưa 
phù hợp với lý thuyết sinh học cây trồng, vật nuôi là thủy sản. 
Thứ bảy, về chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư 
Nội dung trên được quy định tại Khoản 1, 2, 3 Điều 93 LĐĐ năm 2013. 
Theo tác giả, cần nhìn nhận khoản tiền bồi thường, hỗ trợ như nghĩa vụ thanh toán 
tài sản bị thiệt hại do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra, chứ không phải là 
15 
khoản nợ ngân sách. Do vậy, việc “được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức 
tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời 
gian chậm trả” là không phản ảnh đúng bản chất của sự việc. 
3.3.2. Quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 
3.3.2.1. Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 
Theo Khoản 14 Điều 3 LĐĐ năm 2013, Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là 
việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và 
phát triển. 
Đây là quy định “mở”, có lợi cho NSDĐ. Tuy nhiên, để đạt được các tiêu chí 
định tính như: “ổn định”, “phát triển” không phải là dễ đạt đến, cần phải có các 
phương thức hỗ trợ hữu hiệu từ phía Nhà nước. 
3.3.2.2. Quy định pháp luật về hỗ trợ ổn định đời sống khi Nhà nước thu hồi 
đất nông nghiệp 
Nội dung trên được quy định tại Điều 19 NĐ 47/2014/NĐ-CP với các nội 
dung sau: (i) Đối tượng được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; (ii) Điều kiện để 
được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; (iii) Cách thức hỗ trợ ổn định đời sống 
cho các đối tượng có liên quan. 
3.3.2.3. Quy định pháp luật về hỗ trợ ổn định sản xuất khi Nhà nước thu hồi 
đất nông nghiệp 
Nội dung này được quy định tại Điểm a Khoản 4, Khoản 5 Điều 19 NĐ 
47/2014/NĐ-CP của Chính phủ và hướng dẫn chi tiết của UBND cấp tỉnh. 
3.3.2.4. Quy định pháp luật về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm 
việc làm 
Nội dung này được quy định tại Điều 20 NĐ 47/2014/NĐ-CP trên cơ sở kế 
thừa, bổ sung, sửa đổi Điều 22 NĐ 69/2009/NĐ-CP bao gồm các nội dung: (i) Đối 
tượng được hỗ trợ; (ii) Trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong việc lập phương án 
đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; (iii) Trách nhiệm của Bộ Lao động - 
Thương binh và Xã hội trong việc tham mưu, đề xuất cơ chế, chính sách giải quyết 
việc làm và đào tạo nghề cho người thu hồi đất nông nghiệp. 
3.4. Quy định về khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 
Điều 204 LĐĐ năm 2013 đã quy định giải quyết khiếu nại khi Nhà nước thu 
hồi đất theo quy định pháp luật về khiếu nại. Qua khảo sát ý kiến của người bị thu 
hồi đất về khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cho thấy: (i) Có 73.4% số 
người được khảo sát đã thực hiện quyền khiếu nại của mình với cơ quan nhà nước 
có thẩm quyền khi bị ảnh hưởng quyền lợi có liên quan đến việc thu hồi đất nông 
nghiệp; (ii) 71.9% chọn cơ quan UBND để giải quyết khiếu nại; (iii) Chỉ có 39,2% 
chọn cơ quan Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình khi bị thu hồi đất nông nghiệp. 
Như vậy, đa số người dân đều thực hiện quyền khiếu nại của mình với cơ 
quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, có lẽ do tâm lý “e ngại” khi đến Tòa án 
nên họ thường chọn cơ quan UBND để bảo vệ quyền lợi của mình. 
16 
Chương 4 
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ 
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ 
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 
4.1. Quan điểm và những yêu cầu đặt ra về hoàn thiện pháp luật thu hồi 
đất nông nghiệp ở Việt Nam 
4.1.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật thu hồi đất nông nghiệp ở Việt 
Nam 
Trên cơ sở phân tích những mặt đạt được, cũng như bất cập các quy định 
pháp luật và thực tiễn áp dụng đòi hỏi phải hoàn thiện một cách đồng bộ pháp luật 
về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trên cơ sở những quan điểm sau: 
Thứ nhất, phù hợp với đường lối chính sách của Đảng về quản lý đất đai 
Thứ hai, cần đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người có đất nông 
nghiệp bị thu hồi và nhà đầu tư 
Thứ ba, đảm bảo sự tương thích, tránh sự xung đột pháp luật về thu hồi đất 
nông nghiệp với các quy định có liên quan trong hệ thống pháp luật và ngược lại 
4.1.2. Những yêu cầu đặt ra trong việc hoàn hiện pháp luật về thu hồi đất 
nông nghiệp ở nước ta hiện nay 
4.1.2.1. Về công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất - Căn cứ pháp lý 
quan trọng để Nhà nước tiến hành thu hồi đất 
4.1.2.2. Về nội dung, trình tự thủ tục thu hồi đất nông nghiệp 
4.1.2.3. Về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 
4.1.2.4. Về khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 
4.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông 
nghiệp 
4.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 
Các nội dung về QH, KHSDĐ, đề nghị được sửa đổi, bổ sung theo hướng: 
(i) UBND cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc lập QH, KHSDĐ trình 
Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết nghị QH, KHSDĐ sau khi xin ý kiến cơ quan có 
thẩm quyền chuyên môn quản lý về đất đai cấp trên. 
Cơ quan có thẩm quyền chuyên môn quản lý về đất đai cấp trên có trách 
nhiệm kiểm tra các nội dung có liên quan như: sự phù hợp với QH, K

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_phap_luat_ve_thu_hoi_dat_nong_nghiep_o_viet.pdf
  • pdfTHONG TIN LUAN AN TIENG ANH DANG WEB 2017.pdf
  • pdfTHONG TIN LUAN AN TIENG VIET DANG WEB 2017.pdf