Luận án Nghiên cứu cải tạo đất bazan bằng hỗn hợp puzolan – xi măng – vôi làm tường nghiêng chống thấm đập đất vùng Tây Nguyên
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu cải tạo đất bazan bằng hỗn hợp puzolan – xi măng – vôi làm tường nghiêng chống thấm đập đất vùng Tây Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu cải tạo đất bazan bằng hỗn hợp puzolan – xi măng – vôi làm tường nghiêng chống thấm đập đất vùng Tây Nguyên
3 19-21 60 29-31 21-23 8-10 Bảng 2-10. Tổng hợp phân tích thành phần khoáng vật bằng Rơnghen Ký hiệu mẫu Thành phần khoáng vật và hàm lượng, % Vị trí Độ sâu mẫu, m Augit Forsterit Thạch anh Hematit Cristobalit Lepidocrocit Albit QP1.1 10-10,5 29 23 4 11 1 5 27 QP1.2 2,0-2,5 28 22 5 11 2 6 26 QP2.1 4,5-5,0 26 24 6 13 2 4 25 QP2.2 1,5-2,0 27 23 6 12 1 5 26 Đ52.2 4,0-4,5 25 24 5 13 3 3 27 BC1 1,5-2,0 24 24 7 10 2 5 28 Đặc điểm thành phần hóa học 2.5.3.3 Lấy mẫu puzolan tại vị trí nghiên cứu ở tỉnh Đắk Nông để thí nghiệm thành phần hoá học ta có kết quả như Bảng 2-12. Tổng hàm lượng (Si2O + Al2O3 + Fe2O3) của các mẫu có giá trị trung bình là 73,60% lớn hơn giá trị yêu cầu theo ASTM C618-03 là 70% [139], không chứa hàm lượng hữu cơ. Hàm lượng [SO3 -] đều nhỏ hơn 1%. Hàm lượng các thành phần thủy tinh khá cao nên có thể cho rằng các mẫu đá bazan được khảo nghiệm đều có tính chất puzolan. 64 Bảng 2-11. Tổng hợp kết quả thí nghiệm chỉ tiêu cơ lý mẫu puzolan tự nhiên Số hiệu Độ sâu Độ ẩm Khối lượng thể tích Khối lượng riêng Tỷ lệ khe hở Độ rỗng Cường độ kháng nén Hệ số biến mềm Thí nghiệm Hiện trường Vị trí Tự nhiên Bão hòa Tự nhiên Khô Bão hòa Khô Bão hòa Wtn Wbh tn c bh s e n m % % g/cm 3 g/cm 3 g/cm 3 g/cm 3 % kG/cm 2 kG/cm 2 1. Mỏ Quảng Phú 1, xã Quảng Phú, Krong Nô, Đắk Nông M1 QP1.1 Chân mỏ 10,0-10,5 4,34 11,33 1,52 1,46 1,62 2,84 0,95 48,71 70,3 35,80 0,51 M2 QP1.2 Sườn mái 2,0-2,5 2,05 5,43 2,02 1,98 2,09 2,85 0,44 30,55 156,4 130,6 0,84 M3 QP1.3 Chân mỏ 5,0-5,5 2,41 7,93 1,88 1,84 1,98 2,85 0,55 35,52 125,8 90,00 0,72 Gía trị trung bình 2,93 8,23 1,81 1,76 1,90 2,85 0,65 38,26 117,5 85,47 0,69 2. Mỏ Quảng Phú 2, xã Quảng Phú, Krong Nô, Đắk Nông M4 QP2.1 Chân mỏ 4,5-5,0 3,87 10,53 1,51 1,45 1,61 2,85 0,96 48,99 68,3 34,1 0,50 M5 QP2.2 Sườn mái 1,5-2,0 4,23 13,2 1,43 1,37 1,55 2,83 1,06 51,52 94,5 57,3 0,61 M6 QP2.3 Sườn mái 0,5-1,0 1,97 6,32 1,97 1,93 2,05 2,85 0,48 32,21 136,2 107,4 0,79 Gía trị trung bình 3,36 10,02 1,64 1,59 1,74 2,84 0,83 44,24 99,7 66,27 0,63 3. Mỏ Đèo 52, xã Quảng Phú, Krong Nô, Đắk Nông M7 Đ52.1 Sườn mái 2,0-2,5 3,9 11,6 1,43 1,38 1,54 2,84 1,06 51,54 83,7 38,6 0,46 M8 Đ52.2 Chân mỏ 4,0-4,5 2,84 9,9 1,83 1,78 1,96 2,83 0,59 37,12 101,5 67,2 0,66 M9 Đ52.3 Sườn mái 0,5-0,8 2,13 7,2 1,92 1,88 2,02 2,85 0,52 34,04 112,1 83,4 0,74 Gía trị trung bình 2,96 9,57 1,73 1,68 1,84 2,84 0,72 40,90 99,1 63,07 0,62 4. Mỏ Buôn Choáh, xã Buôn Choáh, Krong Nô, Đắk Nông M10 BC1 Chân mỏ 1,5-2,0 1,26 5,7 1,92 1,90 200 2,84 0,50 33,24 175,0 139,2 0,80 M11 BC2 Sườn mái 0,5-1,0 2,97 7,1 1,64 1,59 171 2,85 0,79 44,12 112,3 72,1 0,64 M12 BC3 Chân mỏ 2,5-3,0 3,41 10,4 1,52 1,47 1,62 2,85 0,94 48,43 65,3 30,7 0,47 Gía trị trung bình 2,55 7,73 1,69 1,65 1,78 2,85 0,74 41,93 117,5 80,67 0,64 65 Mẫu puzolan bột cho tác dụng với kiềm cũng như với vôi, kết quả thí nghiệm cho thấy khả năng đông cứng rất rõ rệt. Như vậy, kết quả phân tích ban đầu cho thấy, chất lượng puzolan tự nhiên đủ chất lượng để cải tạo đất. Hình 2.11, trình bày giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu puzolan, kết quả cho thấy: Trên giản đồ xuất hiện một lượng khá lớn pha vô định hình (thủy tinh), đây là pha quyết định hoạt tính của puzolan. Đối với puzolan có nguồn gốc tuff bazan, pha vô định hình thường rất lớn (có khi đạt tới 60%), các pha kết tinh (quartz, plagioclaz, pyroxen, olivin, v.v...) chiếm khoảng 20% - 30% và thường bị biến dạng rất mạnh nên tuff bazan có hoạt tính puzolan cao. Thành phần pha tinh thể chủ yếu trong puzolan là SiO2 tự do ở dạng quartz (α – SiO2), với píc nhiễu xạ đặc trưng tại 2 = 26,7 0 . Ngoài ra, một lượng nhỏ caldecahydrit (CaO.Al2O3.10H2O) với pic nhiễu xạ đặc trưng tại 2 = 12,5 0 cũng được phát hiện. Một số hình ảnh phân tích thành phần hóa học của puzolan tự nhiên, như ở Hình 2.12, Hình 2.13 Hình 2.11. Giản đồ XRD của mẫu puzolan Hoạt tính của puzolan 2.5.3.4 Hoạt tính các mẫu puzolan tự nhiên được đánh giá thông qua độ hút vôi và chỉ số hoạt tính cường độ đối với xi măng. Kết quả thí nghiệm độ hút vôi của các mẫu cho thấy độ hút vôi của mẫu puzolan tự nhiên đạt độ hút vôi trung bình 78,37 mg CaO/g > 30 mg CaO/g [53], chỉ số hoạt tính cường độ đối với xi măng đạt 81,44% > [75%], [70]. Kết quả phân tích cho thấy puzolan tự nhiên khu vực nghiên cứu đảm bảo độ hoạt tính. 66 Bảng 2-12. Tổng hợp kết quả thí nghiệm chỉ tiêu hóa học mẫu puzolan tự nhiên TT Số hiệu mẫu TN Hiện trường Độ sâu mẫu Vị trí lấy mẫu SiO2 Fe2O3 Al2O3 CaO MgO Tổng SO3 Nguồn gốc mẫu 1 M1 QP1.1 10,0-10,5 Chân mỏ 45,53 13,02 13,21 9,1 9,0 89,9 0,05 Mỏ Quảng Phú 1, xã Quảng Phú, Krong Nô, Đắk Nông 2 M2 QP1.2 2,0-2,5 Sườn mái 47,95 12,34 12,80 8,8 10,4 92,3 0,09 3 M3 QP1.3 5,0-5,5 Chân mỏ 46,66 12,7 13,72 9,2 8,8 91,1 0,08 4 M4 QP2.1 4,5-5,0 Chân mỏ 46,23 14,1 12,73 8,7 7,8 89,6 0,09 Mỏ Quảng Phú 2, xã Quảng Phú, Krong Nô, Đắk Nông 5 M5 QP2.2 1,5-2,0 Sườn mái 45,83 12,28 13,92 9,0 7,4 88,5 0,07 6 M6 QP2.3 0,5-1,0 Sườn mái 47,39 12,98 14,21 7,8 8,9 91,3 0,09 7 M7 Đ52.1 2,0-2,5 Sườn mái 47,28 14,55 11,93 8,2 7,3 89,3 0,07 Mỏ Đèo 52, xã Quảng Phú, Krong Nô, Đắk Nông 8 M8 Đ52.2 4,0-4,5 Chân mỏ 46,28 13,28 15,32 9,8 8,5 93,2 0,04 9 M9 Đ52.3 0,5-0,8 Sườn mái 42,34 15,32 14,82 12,3 10,3 95,1 0,11 10 M10 BC1 1,5-2,0 Chân mỏ 44,43 12,83 14,52 10,2 8,3 90,3 0,03 Mỏ Buôn Choáh, xã Buôn Choáh, Krong Nô, Đắk Nông 11 M11 BC2 0,5-1,0 Sườn mái 47,29 13,2 13,29 11,8 9,2 94,8 0,04 12 M12 BC3 2,5-3,0 Chân mỏ 48,23 14,28 16,43 13,2 7,3 99,5 0,04 67 Hình 2.12. Giản đồ phân tích thành phần kim loại của mẫu puzolan bằng kỹ thuật EDX a, Ảnh quang học b, Ảnh SEM c, Ảnh BSE Hình 2.13. Phân tích thành phần hóa học của puzolan theo kỹ thuật EDX 2.5.4 Nhận xét Qua công tác khảo sát và lấy mẫu, thí nghiệm phân tích tính chất cơ - lý, thành phần khoáng hóa, độ hút vôi và chỉ số hoạt tính cường độ đối với xi măng, một số nhận xét về puzolan tự nhiên tại khu vực nghiên cứu như sau: - Nguồn puzolan tự nhiên tại vùng nghiên cứu chủ yếu nằm trong vỏ phong hóa bazan với tổng hàm lượng các chất khoáng hóa yêu cầu đối với chất kết dính có thể làm phụ gia là si líc ô xít, nhôm ô xít và sắt ô xít đều lớn hơn 70%, phù hợp với tiêu chuẩn ASTM C618-03 [139]. Độ hút vôi của puzolan tự nhiên đạt độ hoạt tính trung bình. Các mẫu puzolan tự nhiên đều đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật của phụ gia hoạt tính trong sản xuất xi măng và làm chất kết dính để cải tạo đất tại chỗ. 68 Tuy nhiên, puzolan tự nhiên tại khu vực nghiên cứu tồn tại ở dạng đá ong, phải nghiền mịn trước khi sử dụng mới có hoạt tính (Bảng 2-13). Kết quả đánh giá puzolan tự nhiên đủ điều kiện làm chất kết dính và phụ gia là cơ sở cơ bản để tiến hành nghiên cứu trộn puzolan tự nhiên, xi măng, vôi để gia cố cải tạo đất bazan làm vật liệu chống thấm cho đập đất. Bảng 2-13. Tổng hợp kết quả thí nghiệm chỉ số độ hoạt tính với xi măng và cường độ hoạt tính TT Số hiệu Hiện trường Độ sâu mẫu, m Vị trí lấy mẫu Độ hút vôi, mgCaO/g Chỉ số hoạt tính với xi măng, % Nguồn gốc mẫu 1 M1 QP1.1 10,0-10,5 Chân mỏ 65,98 82,6 Mỏ Quảng Phú 1, xã Quảng Phú, Krong Nô, Đắk Nông 2 M2 QP1.2 2,0-2,5 Sườn mái 68,54 81,4 3 M3 QP1.3 5,0-5,5 Chân mỏ 78,64 81,0 4 M4 QP2.1 4,5-5,0 Chân mỏ 81,13 83,0 Mỏ Quảng Phú 2, xã Quảng Phú, Krong Nô, Đắk Nông 5 M5 QP2.2 1,5-2,0 Sườn mái 85,65 80,2 6 M6 QP2.3 0,5-1,0 Sườn mái 72,61 82,2 7 M7 Đ52.1 2,0-2,5 Sườn mái 79,65 78,7 Mỏ Đèo 52, xã Quảng Phú, Krong Nô, Đắk Nông 8 M8 Đ52.2 4,0-4,5 Chân mỏ 82,50 85,4 9 M9 Đ52.3 0,5-0,8 Sườn mái 86,67 81,4 10 M10 BC1 1,5-2,0 Chân mỏ 82,68 79,8 Mỏ Buôn Choáh, xã Buôn Choáh, Krong Nô, Đắk Nông 11 M11 BC2 0,5-1,0 Sườn mái 76,82 81,8 12 M12 BC3 2,5-3,0 Chân mỏ 79,62 79,8 13 Trung bình 78,37 81,44 2.6 Cơ sở lựa chọn cấp phối thí nghiệm 2.6.1 Hàm lượng xi măng Tỷ lệ xi măng dùng để cải tạo đất chủ yếu phụ thuộc vào nhóm đất (phân loại đất). Theo tài liệu công binh Mỹ [126] phân loại đất theo tiêu chuẩn AASHTO M 145 và hiệp hội gia cố xi măng Mỹ (Portlan Cement Asscociation) [114] đề xuất lượng xi 69 măng tối thiểu cần cho cải tạo đất, được thể hiện trong Bảng 2-14. Trong bảng này, lượng xi măng được tính theo tỷ lệ % so với khối lượng đất cải tạo. Từ kết quả nghiên cứu trong phòng cho thấy, đất tại khu vực nghiên cứu thuộc nhóm A-7 (AASHTO) hay nhóm MH (USCS), hàm lượng xi măng cần dùng 10-16%, tỷ lệ này thay đổi tùy theo yêu cầu chất lượng cải tạo. Bảng 2-14. Hàm lượng xi măng cần thiết để cải tạo đất TT Nhóm đất phân loại theo AASHTO Tỷ lệ xi măng (%) theo khối lượng của đất Tỷ lệ xi măng (%) theo khối lượng thể tích đất đầm chặt Khối lượng xi măng (kg) cho 1 đơn vị thể tích đất đầm chặt 1 A-1-a 3-5 5-7 80-110 2 A-1-b 5-8 7-8 110-130 3 A-2-4 5-9 7-9 110-140 A-2-5 A-2-6 A-2-7 4 A-3 7-11 8-11 130-180 5 A-4 7-12 8-11 130-180 6 A-5 8-13 8-11 130-180 7 A-6 9-15 9-13 140-210 8 A-7 10-16 9-13 140-210 Cục Công binh Mỹ (USA Army, 1987) [142] khuyến nghị lựa chọn hàm lượng xi măng dựa vào loại đất được phân loại theo tiêu chuẩn USCS, như thể hiện trong Bảng 2-15 Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Trí [44], đã chỉ ra rằng cường độ kháng nén 28 ngày trạng thái bão hòa của đất bazan gia cố 6% đến 8% xi măng đạt từ 0,54 MPa đến 0,80 MPa; Cường độ kháng nén 28 ngày trạng thái bão hòa của đất bazan gia cố 6% đến 8% xi măng và 20% đá dăm đạt từ 0,7 MPa đến 0,82 MPa. Kết cấu mặt đường gồm lớp đất bazan gia cố 20% đá dăm và 6% đến 8% xi măng, sau đó găm đá dăm láng nhựa đáp ứng yêu cầu đường giao thông nông thôn có lưu lượng giao thông thấp như cấp A trong 22TCN 210-92, hoặc loại B, C trong TCVN 31080-2014. Hàm lượng xi măng hợp lý trong gia cố là: 6-8% [15]. 70 Như vậy, đất tại KVNC thuộc nhóm A-7-5, theo các kết quả trong và ngoài nước thì lượng xi măng cần sử dụng từ 6%-16% (chỉ dùng xi măng). Tuy nhiên, để có thể lựa chọn được hàm lượng hợp lý khi phối trộn cùng chất kết dính khác, tác giả sẽ chọn khoảng từ 0-16% để nghiên cứu. Bảng 2-15. Hàm lượng xi măng cần thiết để cải tạo đất phân loại theo USCS TT Phân loại đất Hàm lượng xi măng ước tính (%) theo trọng lượng đất khô 1 GW-SW 5 2 SP, SW-SM, SW-SC, SW-GM, SW-GC 6 3 GM, SM, GC, SP-SM, SP-SC, GP-GM,GP- GC,SM-SC, FM-GC 7 4 SP, CL, ML, ML-CL 10 5 MH, OH 11 6 CH 10 2.6.2 Hàm lượng vôi Tổng kết phương pháp thiết kế cấp phối đất cải tạo vôi do Hiệp hội vôi quốc gia Mỹ (National Lime Association) [97] hàm lượng vôi lựa chọn phụ thuộc vào thành phần hạt và chỉ số dẻo được thể hiện tại Hình 2.14. Kiến nghị hàm lượng vôi (HLV) để cải tạo đất hạt thô dựa vào tổng hàm lượng hạt bụi và sét (BS) như sau: HLV từ 2%, 3%, đến 5% nếu BS nhỏ hơn 50%; HLV từ 5%, 7%, đến 10% nếu BS lớn hơn 50%. Nhận xét: Căn cứ vào hàm lượng hạt bụi sét và chỉ số dẻo của đất tại KVNC, hàm lượng vôi cần thiết để cải tạo đất từ 4%-8%. Tuy nhiên, để có thể lựa chọn được hàm lượng hợp lý khi phối trộn cùng chất kết dính khác, sẽ chọn khoảng từ 0-8%. 2.6.3 Hàm lượng puzolan tự nhiên Theo nghiên cứu của Nader Abbasi (2018) [122], khi nghiên cứu cho đất cát bụi (silt sand soil) tại vùng Jandagh - Garmar, Iran, tác giả đã nghiên cứu phối trộn 4 hàm lượng Puzolan (0, 5%, 10% và 15%) với 4 tỷ lệ vôi (0, 1%, 3%, 5% và 7%). Kết quả cường độ kháng nén ở 14 ngày tự nhiên cho thấy mẫu đạt cường độ kháng nén lớn nhất khi tỷ lệ puzolan/vôi từ 3 - 5 lần. Khelifa Harichane và Mohamed Ghrici (2011) [85], khi nghiên cứu trên đất có tính dẻo cao tại thị trấn Chlef bắc Algeria, với 3 tỷ lệ 71 puzolan (0, 10%, 20%) kết hợp với 3 hàm lượng vôi (0, 4%, 8%), kết quả cường độ kháng nén ở 28 ngày cho thấy khi tỷ lệ puzolan trên vôi đạt 2,5 cho cường độ kháng nén lớn nhất. Fanghai Yang (2002) [91], đã nghiên cứu sử dụng tro bay (FA) cho thấy hàm lượng FA 10%-20% thì lượng vôi cần sử dụng là 3%,5%,7%. Như vậy, tỷ lệ FA/vôi là 3 lần. Khuyến cáo của hiệp hội công binh Mỹ (US Army Corps of Engineers manual EM1110-03-137 and TM 5-822-14) [138], khi sử dụng tro bay kết hợp với vôi mà cường độ không đạt yêu cầu thì thêm 1% xi măng vào, nếu cường độ không đáp ứng yêu cầu thì tăng dần hàm lượng xi măng cho đến khi đạt cường độ mong muốn. Tổng vật liệu được thêm vào không nên vượt quá 15% trong lượng khô của đất. Chất lượng puzolan tự nhiên tại khu vực nghiên cứu có các loại khoáng chất khá tốt, độ hút vôi của puzolan đạt độ hoạt tính trung bình. Do vậy, khi sử dụng puzolan tự nhiên để cải tạo đất ngoài kết hợp trực tiếp với vôi, cần bổ sung thêm xi măng. Để đánh giả ảnh hưởng của các chất kết dính kết hợp với puzolan, đồng thời sử dụng tối đa hàm lượng puzolan trong cải tạo đất, hàm lượng puzolan tự nhiên lựa chọn để thực hiện thí nghiệm là 0, 5%, 10%, 15% và 20%. Hình 2.14. Toán độ lựa chọn hàm lượng vôi cải tạo đất 72 2.7 Kết luận Chương 2 - Từ nghiên cứu cơ sở khoa học sử dụng chất kết dính vô cơ để cải tạo đất tại chỗ như: cải tạo đất bằng vôi; cải tạo đất bằng vôi kết hợp với các chất kết dính; Phân tích khả năng cải tạo đất bằng chất kết dính; Ứng xử của xi măng với đất; Ứng xử của chất kết dính với đất và puzolan tự nhiên với chất kết dính. Thấy rằng, puzolan có thể gia cố được đất để tăng cường độ và giảm tính thấm, trương nở, co ngót, tan rã. - Đất bazan tại khu vực nghiên cứu khi chế bị với độ chặt, K = 0,98 ở trạng thái bão hòa có các chỉ tiêu cơ học giảm mạnh, góc ma sát trong của đất giảm 35%, lực dính giảm ≈ 50% so với trường hợp không ngâm bão hòa. Chỉ tiêu cường độ kháng nén không hạn chế nở hông ở trạng thái bão hòa bằng “0” nguyên nhân là do mẫu bị tan rã hoàn toàn, điều đó cho thấy đất ở trạng thái bão hòa không có khả năng kháng nén. Đó chính những yếu tố bất lợi khi xây dựng công trình các công trình trong điều kiện ngập nước thường xuyên hoặc ngập nước theo mùa mà không có biện pháp ngăn chặn cũng như bảo vệ. Để sử dụng trực tiếp được loại đất này trong các công trình đất đắp cần thiết phải cải tạo đất . - Puzolan tự nhiên ở Tây Nguyên dồi dào, chưa sử dụng tưng xứng với nguồn lực sẵn có. Chất lượng puzolan tại vùng nghiên cứu chủ yếu nằm trong vỏ phong hóa bazan với tổng hàm lượng hóa học yêu cầu đối với chất kết dính đều lớn hơn 70% phù hợp với tiêu chuẩn ASTM C618-03. Các mẫu puzolan tự nhiên đều đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật và công nghệ của phụ gia hoạt tính, nửa hoạt tính trong sản xuất xi măng và đặc biệt có thể làm chất kết dính để cải tạo đất tại chỗ. - Dựa vào các nghiên cứu tổng quan trên thế giới và Việt Nam ở Chương 1 kết hợp với cơ sở khoa học đề xuất phạm vi thành phần cấp phối của hỗn hợp vật liệu đất được cải tạo: puzolan 0% đến 20%, xi măng từ 0% đến 10% và vôi 0% đến 8%. để sử dụng cho mô hình nhiệt động lực học ở Chương 3. 73 PHÂN TÍCH CƠ CHẾ CẢI TẠO ĐẤT BẰNG PUZOLAN TỰ CHƯƠNG 3 NHIÊN, XI MĂNG VÀ VÔI THÔNG QUA MÔ HÌNH NHIỆT ĐỘNG LỰC HỌC 3.1 Sử dụng mô hình nhiệt động lực học nghiên cứu cải tạo đất tại chỗ bằng chất kết dính 3.1.1 Sơ lược về mô hình nhiệt động lực học và các ứng dụng của mô hình Mô hình “Nhiệt động lực học” có thể mô phỏng tốt và hỗ trợ việc phân tích về hệ các phản ứng hóa học diễn ra khi trộn nhiều vật liệu vào với nhau. Với ba biến số ảnh hưởng chủ yếu nhất là nhiệt độ, áp suất và thành phần hóa học. Kết quả của mô hình có thể dự đoán được, nếu phản ứng sẽ diễn ra và trạng thái cuối cùng sau khi phản ứng kết thúc. Các định luật tổng quát điều chỉnh nhiệt động lực học đã được phát triển, phổ biến từ nhiều năm nay và lần đầu tiên được áp dụng cho hóa học xi măng vào cuối thế kỷ 19 của Le Chatelier để chứng minh rằng quá trình hydrat hóa xi măng thu được thông qua sự hòa tan của clinke ban đầu dẫn đến một pha nước luôn bão hòa đối với các phản ứng thủy hóa từ đó dẫn đến sự kết tủa của các pha rắn. Cuối cùng đạt đến trạng thái cân bằng pha rắn, pha lỏng còn lại trong hệ thống lỗ rỗng pha rắn của xi măng. Từ những năm 1940 là thời kỳ nghiên cứu về nhiệt động lực học ứng dụng phát triển mạnh mẽ. Trong thời kỳ này, sự phát triển của mô hình nhiệt động lực học là sự ra đời của nhiều nghiên cứu ứng dụng của mô hình vào các lĩnh vực khác nhau. Mô hình nhiệt động lực học được phát triển và ứng dụng bởi các nhà địa hóa học nhằm tính toán hệ phương trình phản ứng phức tạp của hệ đa chất thường xảy ra trong tự nhiên. Mô hình nhiệt động lực học đã được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như: Dự đoán tuổi thọ độ bền của công trình ngầm chứa rác thải phóng xạ với các tương tác xi măng/sét/phóng xạ [120], [113]; Mô phỏng độ bền của kết cấu vật liệu dưới áp suất cao của việc dự trữ khí CO2, khi mà dưới áp suất cao các vật liệu bị cacbonat hóa mạnh mẽ bởi CO2 [130], [129] ; Lan truyền chất ô nhiễm, dự đoán vùng ô nhiễm bởi các kim loại nặng trong đất [93], [112]; Cân bằng quá trình thủy hóa của xi măng, ảnh hưởng nhiệt độ tới quá trình thủy hóa [79], [131], [77], [125]; 74 Tương tác đất sét hay bentonit và vật liệu kết dính puzolan [111], [110]. Để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng cải tạo đất của vôi, Laurent De Windt và nnk [110] đã tiến hành thí nghiệm bằng việc sử dụng hỗn hợp bentonit và 10% vôi cũng như sử dụng mô hình nhiệt động lực học để tìm hiểu tương tác của các khoáng có trong đất bentonit và vôi tạo ra các phản ứng puzolanic hóa ở nhiệt độ 20°C và 50°C. Do vậy, mô hình nhiệt động lực học có thể ứng dụng vào nghiên cứu cơ chế phản ứng giữa đất bazan - puzolan tự nhiên/puzolan nhân tạo có tính chất tương tự xi măng Ngoài ra, khi thời gian phản ứng trở nên quá dài để thực hiện các thí nghiệm dẫn tới chi phí thí nghiệm mô hình vật lý tăng cao, mô hình hóa trở thành phương tiện khả thi duy nhất để ước tính độ bền của vật liệu xi măng trong một số ứng dụng rất quan trọng như ổn định và hóa rắn chất thải phóng xạ, cũng như xử lý các chất thải phóng xạ. Tuy nhiên hiện nay, việc ứng dụng mô hình này tại Việt Nam vào nghiên cứu trong các lĩnh vực vật liệu xây dựng còn hạn chế. Chi tiết các ứng dụng nổi bật của mô hình nhiệt động lực học sẽ được giới thiệu trong phần nghiên cứu thủy hóa xi măng dưới sự ảnh hưởng của hàm lượng vôi, tro bay và nhiệt. Nguyên lý chung của mô hình nhiệt động lực học trong nghiên cứu cải tạo đất bằng puzolan, xi măng và vôi là xét đến sự cân bằng của hệ các khoáng của : đất- puzolan - xi măng – vôi, thể hiện như Hình 3.1. Hình 3.1. Nguyên lý chung của mô hình nhiệt động lực học 3.1.2 Ứng dụng của mô hình nhiệt động lực học vào nghiên cứu thủy hóa xi măng Trong phần này, các ứng dụng của mô hình nhiệt động lực học như nghiên cứu thủy hóa của xi măng. 75 Nghiên cứu thủy hóa xi măng dưới tác động của CaCO3 3.1.2.1 Việc bổ sung CaCO3 vào clinker ngày càng phổ biến vì nó làm giảm lượng khí thải carbon của các việc sản xuất xi măng truyền thống. CaCO3, thay vì trơ nếu để trong điều kiện tự nhiên, sẽ tham gia phản ứng hydrat hóa. Việc bổ sung CaCO3 vào clinker C3A hoặc xi măng Portland giúp ổn định khoáng calci monocarboaluminat, C4ACH11 (monocarboaluminat) và ettringit C6AS3H32, ngược lại sẽ làm mất ổn định monosulphat C4AS3H12 [78], [100]. Ngoài ra, ettringit có thể kết hợp tới 9% carbonat tại 25°C [43], sẽ tăng cường hơn nữa khả năng lấp đầy không gian của chất rắn. Mô hình nhiệt động lực học [131], [78], [104] đã giúp khẳng định những nhận định này, Hình 3.2 đã cho thấy sự hiện diện của đá vôi tạo ra sự ổn định của khoáng ettringit; sự hiện diện của một lượng nhỏ CaCO3 (lên đến xấp xỉ 5%) làm tăng tổng khối lượng chất rắn ngậm nước và do đó làm giảm độ rỗng của vữa xi măng, như trong Hình 3.2. Hình 3.2. Hàm lượng khoáng thủy hóa của xi măng Portland thay đổi theo hàm của lượng CaCO3 [104] Nghiên cứu thủy hóa xi măng dưới tác động của tro bay 3.1.2.2
File đính kèm:
- luan_an_nghien_cuu_cai_tao_dat_bazan_bang_hon_hop_puzolan_xi.pdf
- Trích yếu luận án - VN.pdf
- Trích yếu luận án - EN.pdf
- Tom tat Luan an- VN.pdf
- Tom tat Luan an - EN.pdf