Luận án Quản lý xây dựng hạ ngầm các đường dây, cáp đi nổi tại đô thị trung tâm Thành phố Hà Nội
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Quản lý xây dựng hạ ngầm các đường dây, cáp đi nổi tại đô thị trung tâm Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Quản lý xây dựng hạ ngầm các đường dây, cáp đi nổi tại đô thị trung tâm Thành phố Hà Nội
hợp với những khu vực chưa phát triển, khi số lượng đường dây, đường ống còn ít. Vị trí bố trí bể cáp phải thuận tiện cho lắp đặt, bảo dưỡng, khai thác và bảo đảm an toàn, mỹ quan đô thị không làm ảnh hưởng đến các phương tiện giao thông và người qua lại. Không xây dựng bể cáp ở các vị trí đường giao nhau. Bảng 2.5 . Quy định về bố trí các hệ thống[41] Số lớp ống nhựa trong một cống cáp Số ống nhựa trong một cống cáp Kích thước cống cáp (mm) Miệng Đáy 1 2 450 350 1 3 600 500 1 4 750 650 2 4 450 350 2 6 600 500 2 8 750 650 3 9 600 500 3 12 750 650 4 16 750 650 5 20 750 650 70 2.4.3 Bố trí các đƣờng dây và đƣờng ống chung trong c ng một hào [41] Do việc bố trí hệ thống các đường dây và đường ống một cách riêng rẽ trên phải tuân thủ quy định về cự ly tối thiểu nên trong nhiều trường hợp sẽ gặp khó khăn khi bố trí chúng trên mặt cắt ngang và cũng sẽ dẫn đến hiện tượng đào lên, lấp xuống để lắp đặt, bảo dưỡng và sửa chữa trong quá trình khai thác. Chính vì lý do đó mà phương pháp này chỉ được sử dụng khi trình độ phát triển của đô thị chưa cao và số lượng đường dây và đường ống hạ ngầm không nhiều. Để khắc phục các yếu điểm trên, người ta đào một hào rộng trên vỉa h rồi cho đặt tất cả các đường dây và đường ống ngầm vào đó cùng một lúc. Phương pháp này chỉ có thể thực hiện được khi xây dựng đường phố đồng bộ. Khoảng cách giữa các đường ống có thể được rút ngắn hơn, và có thể được tính theo công thức sau: L = h + 0.4 (m) Trong đó: h là độ chênh cao giữa hai đường ống đặt gần nhau (m) Hình thức chôn các đường dây và đường ống chung trong cùng một hào này chỉ có tính chất tạm thời hoặc khi không có đủ điều kiện về kinh tế. Việc chôn trực tiếp này gây nhiều khó khăn cho công tác duy tu, bảo dưỡng và lắp đặt, bổ sung các cơ sở hạ tầng mới; gây khó khăn cho công tác quản lý, vv. Do vậy, chúng chỉ được áp dụng ở những khu vực chưa phát triển hoặc không có điều kiện kinh tế mà thôi. H nh 2.13: Bố trí công tr nh ngầm trong cùng một hào. 1. ng cấp nhiệt 2. ng cấp nước 3. ng cấp khí đốt 4. Cống thoát nước b n[41][17] 71 2.4.4 Bố trí hệ thống dây và đƣờng ống vào chung trong một tuy nen kỹ thuật[41]. Sự phát triển đô thị và sự gia tăng nhu cầu sử dụng các cơ sở vật chất mới đã dẫn đến sự gia tăng về các kết cấu hạ tầng đô thị. Các kết cấu hạ tầng đô thị này lại thường được bố trí ngầm ở dưới lòng đất và thường chạy dọc theo đường giao thông; trong khi không gian ngầm lại thường bị giới hạn bởi chiều rộng của đường. Trong cuộc sống hiện đại, nhu cầu sử dụng các tiện nghi đô thị và công tác duy tu, bảo dưỡng chúng tăng rất nhanh dẫn đến tình trạng thiếu hụt không gian ngầm đô thị, và trong một số trường hợp thì việc bố trí không gian để lắp đặt các tiện ích, cơ sở vật chất đô thị mới là vô cùng khó khăn. Hơn nữa, việc đặt các hệ thống kỹ thuật có chức năng khác nhau (đường điện, nước, cáp thông tin, cấp nhiệt, ga,..vv), dù có tách riêng từng loại, nhưng do sự tiếp xúc trực tiếp các loại đường ống với đất sẽ làm giảm thời gian phục vụ của chúng và gây hiện tượng đào bới lòng đường, h phố trong quá trình lắp đặt, sửa chữa. Điều này sẽ làm cho việc khai thác hệ thống thiết bị kỹ thuật này trở nên tốn kém, lãng phí. Ngoài ra, việc duy tu bảo dưỡng các tiện ích s n có và việc lắp đặt các tiện ích mới thường gây xáo trộn hoặc cản trở giao thông đô thị. Hiện nay, hình thức tiên tiến nhất là đặt chúng vào chung trong một tuynen kỹ thuật, trong đó thường đặt các đường ống cấp, thoát nước có áp, đường ống cấp ga, khí đốt, cáp điện lực và đường dây thông tin. Đây là phương pháp tiên tiến nhất, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của giao thông vì không phải đào mặt đường khi bảo dưỡng, sửa chữa. Hệ thống tuynen kỹ thuật có thể có nhiều dạng, có loại kết hợp cả hệ thống cống thoát nước sinh hoạt và nước mưa, cùng với hệ thống cấp ga, khí đốt với hệ thống đường ống cấp nước và cáp điện lực, thông tin; có loại tách riêng hệ thống cáp điện lực, thông tin với hệ thống cấp, thoát nước và ga, khí đốt. Cấu tạo của tuynen kỹ thuật bao gồm: Tuynen kỹ thuật có kích thước và không gian đủ rộng để nhân viên kỹ thuật có thể đi lại bình thường để kiểm tra hệ thống hoặc đảm bảo cho ít nhất là 1 nhân viên và xe chuyên dụng có thể vào làm việc. Do đó kích thước tối thiểu của tuy nen kỹ thuật thường là 0.9m x 1.9 m. Ngoài ra, trong tuy nen kỹ thuật thường phải bố trí hệ thống thiết bị chiếu sáng, thông gió và phải bảo đảm 72 các điều kiện cần thiết để hệ thống điện, thông tin làm việc bình thường, không bị nhiễu, cũng như phải đảm bảo về mặt an toàn cháy nổ. Về hình dạng, có rất nhiều dạng như: hình chữ nhật, hình chữ nhật có nắp đậy, hình thang, hình tròn và hình ovan. Tuy nhiên, chỉ có hai dạng là được dùng phổ biến là, dạng mặt cắt chữ nhật và hình tròn vì dễ thi công. Dạng mặt cắt hình chữ nhật phù hợp với những khu vực có điều kiện về mặt bằng thi công, mật độ xây dựng thấp; mặt cắt hình tròn phù hợp với những khu vực có điều kiện về mặt bằng thi công hạn chế, mật độ xây dựng cao như ở trong khu trung tâm thành phố do phương pháp thi công thích hợp nhất là phương pháp thi công đào kín bằng các thiết bị khoan hầm. H nh 2.14 Cấu tạo điển h nh của tuy nen thường, dạng h nh tr n và ch nhật ( . Cáp vi n thông 2. Cáp điện trung thế 3. Cáp điện cao thế 4. Không gian dự tr 5. ng cấp nước sạch 6. ng thoát nước)[41] Tuỳ theo quy mô xây dựng và loại tuyến kỹ thuật nào được yêu cầu sử dụng trên mặt đất, bên trong tuynen sẽ bố trí tổ hợp của nhiều tuyến ống kỹ thuật khác nhau hoặc chỉ một tuyến duy nhất. Hệ thống tuynen kỹ thuật có khả năng giải quyết vấn đề chỗ chứa các tuyến ống kỹ thuật hiệu quả nhất và chúng là một trong những tiêu chí chủ yếu để đánh giá mức độ hiện đại của một đô thị. Việc sử dụng hệ thống tuy nen kỹ thuật có nhiều ưu điểm nổi bật như sau: - Góp phần làm thông thoáng đô thị và làm nổi bật kiến trúc cảnh quan. Vì vậy xây dựng các tuyến điện - cáp trên mặt đất thường được bố trí ở trên cao nên 73 làm mất vẻ mỹ quan đô thị và gây khó khăn cho công tác chữa cháy khi có hoả hoạn; - Tiết kiệm diện tích xây dựng công trình trên mặt đất, tránh đền bù giải phóng mặt bằng và đào phá đường không có kế hoạch; - Thống nhất các tuyến kỹ thuật với nhau, rất thuận lợi cho công tác quản lý; - Nhân viên kỹ thuật dễ dàng vào trong tuynen nhờ các cửa chính ra - vào, hố thăm. Do đó giảm nguy cơ phá hỏng đến các công trình ngầm xung quanh, cũng như dễ dàng biết chính xác vị trí các đường ống kỹ thuật bên trong nên tiết kiệm thời gian và chi phí để phát hiện đường ống có sự cố kỹ thuật; H nh 2.15 Bố trí hệ thống đường dây, đường ống trong tuy nen k thuật ( . Thoát nước mưa 2. Thoát nước thải 3. iếng thăm 4. Cáp điện 5. Cáp thông tin 6. ng cấp nước 7. ng cấp nhiệt)[41][17] - Công tác duy tu, sửa chữa và nâng cấp tuyến được tiến hành một cách dễ dàng thuận lợi; - Các tuyến đường ống kỹ thuật bố trí bên trong tuynen: được cách ly an toàn và được vỏ hầm bảo vệ nên chúng sẽ có tuổi thọ sử dụng lâu dài, đảm bảo an toàn sử dụng; do đó có thể sử dụng đường ống dẫn có vỏ bằng vật liệu rẻ tiền hơn so với tuyến ống được chôn ngầm; 74 - Đặc biệt đối với tuyến cáp thông tin - viễn thông, việc bố trí tuynen kỹ thuật sẽ giảm tối đa khả năng bị gây nhiễu sóng; - Tuynen kỹ thuật có dự trữ không gian cho nhu cầu phát triển tương lai, nên chi phí đầu tư khi nâng cấp mở rộng quy mô tuyến tương đối thấp; Lợi ích cơ bản của hệ thống tuy nen kỹ thuật là nhằm giảm thiểu việc đào đường, h phố để sửa chữa các hệ thống hạ tầng kỹ thuật so với việc lắp đặt riêng từng loại một. Để đảm bảo thuận tiện cho công tác duy tu, bảo dưỡng hoặc lắp đặt và để giảm thiểu đến giao thông, chúng thường được thi công lắp đặt dưới mặt đường hoặc trên vỉa h . Tuy nhiên, việc chọn loại nào phụ thuộc không những vào loại hình dịch vụ được chứa trong hầm, kích thước đường kính của các loại đường dây, đường ống dịch vụ, các yêu cầu về lắp đặt, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện mặt bằng của đường và h phố. Hệ thống tuy nen kỹ thuật ngầm thường được sử dụng ở khu trung tâm các thành phố, nơi có mật độ xây dựng cao. Chúng thường được thi công đồng thời với công tác thi công đường. Việc đưa các hệ thống đường dây và đường ống vào chung trong một hào hoặc tuy nen kỹ thuật sẽ kéo dài thời gian phục vụ của chúng, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác lắp đặt, khai thác và quản lí, đồng thời sẽ làm giảm đáng kể các hiện tượng đào xới lòng đường, h phố, không gây trở ngại cho các phương tiện giao thông trên đường và người đi bộ. Điều đó giải quyết được nhu cầu sử dụng không gian ngầm đô thị và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác duy tu bảo dưỡng, lắp đặt mới, cũng như hạn chế tối đa các ảnh hưởng xấu đối với môi trường và xã hội. Chính vì lý do đó mà ở các đô thị của các nước phát triển hệ thống tuy nen kỹ thuật được sử dụng rộng rãi với khẩu hiệu “Vì một thành phố không bị đào bới” đã được đưa ra để kêu gọi sự quan tâm của mọi người về lĩnh vực thiết kế - thi công các loại hào, tuy nen kỹ thuật, thậm chí ở Nhật Bản, hệ thống tuy nen kỹ thuật còn được thiết kế không chỉ nhằm đảm bảo môi trường cảnh quan đô thị, cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng tới người dân đô thị, mà còn nhằm giảm tối đa sự 75 gián đoạn cung cấp các dịch vụ hạ tầng kỹ thuật và làm nơi trú ẩn cho người dân Nhật Bản khi có thảm họa động dất hoặc chiến tranh. Về mặt lịch sử, công trình ngầm kỹ thuật đô thị đầu tiên được xây dựng ở Anh cách đây 140 năm (1866) để chứa đường ống nước uống và nước thải. Con người có thể đi lại được trong đường hầm này và hiện nay nó vẫn được sử dụng[62]. Tiếp theo đó, hệ thống công trình ngầm kỹ thuật đô thị ở Paris được xây dựng. Chúng được tích hợp thêm các đường ống khí đốt gas, cáp điện và đường ống khí hơi nén. Ban đầu, CTN- KTĐT thường hay được sử dụng ở các trường đại học, bệnh viện, công viên giải trí, doanh trại quân đội và nhà máy điện nguyên tử. Đến nay, hệ thống công trình ngầm kỹ thuật đô thị đã được phát triển ở nhiều đô thị lớn, đặc biệt là các nước phát triển. Sau đây là một số công trình tiêu biểu: - Tuyến tuynen kỹ thuật dài 7.4km trong thành phố Taukuba Science ở Nhật Bản, tuyến được xây dựng để chứa các ống vận chuyển nước thải, ống cung cấp hệ thống điều hoà và nước nóng, cáp điện năng, cáp điện thoại, cáp thông tin. - Tuyến tuynen kỹ thuật dài 1,8km của Trường Đại học Utah State ở Mỹ, bên trong hầm gồm tuyến cáp viễn thông, cáp điện, gas, cấp hơi nước. Vỏ hầm dạng hình chữ nhật đúc s n, kích thước tiết diện bên trong hầm 3m x 3m[54]. - Tuyến điện ngầm 230kV nối từ trạm điện Lardprao đến trạm Vibhavadi ở BangKok. Tuyến dài khoảng 7km, vỏ hầm hình tròn đường kính trong của vỏ là 2,6m. Các đơn nguyên vỏ hầm được đúc s n tại nhà máy và được thi công bằng áp lực. Thời gian xây dựng từ năm 1999 - 2002. - Hongkong có 4 tuyến tuynen kỹ thuật bố trí chính ở trung tâm thành phố: Wah Fu-Bowen dài 3,1km, Nam Fung - Parker dài 5,7km. Tin Wan - Wah Fu và Cyberport - Wah Fu đều dài 0,8km. Hai tuyến Wah Fu và Nam Fung đều cho xe chuyên dụng vào hoạt động. Tuyến Wah Fu - Bowen có mặt cắt ngang dạng vòm, kích thước 8m x 4,5m (rộng x cao) và được xây dựng hoàn thành vào năm 1993. - Tuyến tuy nen kỹ thuật kết hợp với tuyến tàu điện nhanh Xinyi and Sonshan MRT rapid transit ở thủ đô Đài Bắc, Đài Loan[55]. 76 2.5 Tổ ch c quản lý xây dựng hạ ngầm các đƣờng dây, cáp đi nổi Để quản lý xây dựng hạ ngầm các đường dây, cáp đi nổi, nhà quản lý cần có cơ cấu tổ chức và cơ chế quy định mọi hoạt động của các bộ phận trong cơ cấu quản lý nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu đã định. 2.5.1. Yêu cầu đối với cơ cấu tổ ch c quản lý [26]. Cơ cấu tổ chức quản lý xây dựng hạ ngầm các đường dây, cáp đi nổi là tổng hợp các bộ phận (đơn vị và cá nhân) khác nhau có chuyên môn hóa và có trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau, đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý xây dựng hạ ngầm các đường dây, cáp đi nổi, để phát triển xây dựng hạ ngầm các đường dây, cáp đi nổi đòi hỏi một cơ cấu quản lý thích hợp. Khi xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau: - Tổ chức cần có tính tối ưu. - Tổ chức cần có tính linh hoạt. - Tổ chức cần có tính tin cậy. - Tổ chức cần có tính kinh tế. 2.5.2. Nguyên tắc cơ bản tổ ch c quản lý xây dựng hạ ngầm các đƣờng dây, cáp đi nổi. Các đường dây, cáp đi nổi là các công trình hạ tầng kỹ thuật, vì vậy cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau: - Phải đảm bảo thực hiện có hiệu quả theo chức năng, nhiệm vụ được giao. - Phải được chuyên môn hóa cao bảo đảm tính thống nhất. - Phải thống nhất và tập trung, dân chủ, phân công, phân cấp rõ ràng. 2.5.3. Phƣơng pháp phân chia cơ cấu tổ ch c quản lý xây dựng hạ ngầm các đƣờng dây, cáp đi nổi[26]. Sự phân chia công việc và giao việc cho một nhóm chuyên môn nào đó của quản lý xây dựng hạ ngầm các đường dây, cáp đi nổi gọi là sự phân chia bộ phận. Hiện nay tồn tại nhiều cách phân chia bộ phận, nhưng có bốn kiểu phân chia bộ phận là: phân chia theo chức năng, phân chia theo địa lý, phân chia theo kết quả hoạt động của hệ thống, phân chia theo ma trận. 77 - Phân chia theo bộ phận chức năng: là việc hình thành một bộ phận trong đó có các thành viên phải hoạt động theo một chức năng nào đó tùy thuộc vào lĩnh vực mà họ thành thạo và những nguồn lực mà họ có được nhằm hoàn thành những nhiệm vụ nhất định. - Phân chia bộ phận theo khu vực địa lý: có nghĩa là giao cho một nhóm thành viên thực hiện toàn bộ chức năng của tổ chức tại một địa bàn nhất định dưới sự điều khiển của một người quản lý. Phân chia bộ phận theo địa lý cho phép một hệ thống trải rộng phạm vi hoạt động của mình đồng thời đáp ứng nhu cầu đa dạng của đối tượng phục vụ tại những địa bàn khác nhau trên cơ sở mục tiêu thống nhất của toàn bộ tổ chức. - Phân chia bộ phận theo kết quả hoạt động của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị: Cách phân chia này dựa vào sản phẩm hay kết quả dịch vụ; trong đó hệ thống được chia thành các đơn vị hoặc các bộ phận tương đối độc lập, tự chủ, có khả năng hoạt động như một tổ chức hoàn chỉnh để sản xuất hoặc triển khai dịch vụ. - Phân chia bộ phận theo ma trận: dựa trên một hệ thống quyền hạn và hỗ trợ đa chiều. Nói cách khác, mỗi bộ phận chỉ phải chịu sự quản lý theo chức năng (của đơn vị chủ quản). Có hai tuyến quyền hạn trong một ma trận. Một tuyến thẳng đứng theo đơn vị chức năng và một tuyến nằm ngang theo sản phẩm hoặc dự án. Do đó, việc phân chia bộ phận kiểu ma trận sẽ xuất hiện thêm người quản lý là giám đốc quản lý dự án. 2.5.4. Các hình th c tổ ch c quản lý xây dựng hạ ngầm các đƣờng dây, cáp đi nổi. Cùng với sự phát triển của khoa học quản lý, các hình thức tổ chức quản lý cũng được nhiều nhà quản lý nghiên cứu. Theo một cách tiếp cận mới, cơ cấu tổ chức quản lý được phân loại như sau: cơ cấu tổ chức trực tuyến, cơ cấu chức năng, cơ cấu trực tuyến – chức năng, cơ cấu phi hình thức. 78 2.5.4.1. Cơ cấu tổ chức trực tuyến [26]. Cơ cấu tổ chức trực tuyến là hình thức đơn giản nhất và thường áp dụng ở nhiều hệ thống. cơ cấu này mỗi bộ phận trung gian có một cấp trên và một hay nhiều cấp dưới. Mô hình cơ cấu tổ chức trực tuyến được thể hiện trong hình 2.16. Hình 2.16. Mô h nh cơ cấu trực tuyến [26] Toàn bộ vấn đề được giải quyết bằng một kênh liên hệ theo đường thẳng. Cấp lãnh đạo điều hành và trực tiếp chịu trách nhiệm về sự tồn tại của hệ thống. Cơ cấu trực tuyến chủ yếu được áp dụng cho những hệ thống vừa và nhỏ, sản phẩm không phức tạp, tính chất sản xuất liên tục. Đặc điểm cơ bản của cơ cấu tổ chức quản lý trực tuyến là người lãnh đạo hệ thống thực hiện tất cả các chức năng quản lý, các mối liên hệ trong tổ chức được thực hiện theo đường thẳng. Người thừa hành mệnh lệnh chỉ nhận mện lệnh qua một cấp trên trực tiếp và chỉ thi hành mệnh lệnh của người đó mà thôi. Cơ cấu trực tuyến tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chế độ một thủ trưởng, người quản lý phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả hoạt động của thành viên cấp dưới. Cơ cấu trực tuyến còn tồn tại một số nhược điểm như: đòi hỏi người lãnh đạo phải có kiến thức tổng hợp, hạn chế việc sử dụng chuyên gia, việc trao đổi thông tin với các đơn vị ngang quyền chậm trễ và vòng vèo. Để khắc phục nhược điểm của cơ cấu trực tuyến, người ta còn thiết kế cơ cấu trực tuyến – tham mưu. Đây vẫn là cơ cấu trực tuyến nhưng có thêm một bộ phận tham mưu giúp việc (xem hình 2.17). Tuy nhiên nhược điểm là tốc độ ra quyết định chậm vì thêm người để bàn bạc nên người lãnh đạo phải cân nhắc lâu hơn. 79 Hình 2.17. Mô h nh cơ cấu trực tuyến – tham mưu 26] 2.5.4.2. Cơ cấu chức năng [26]. Cơ cấu chức năng là cơ cấu mà những nhiệm vụ quản lý được phân chia cho các đơn vị riêng biệt theo các chức năng quản lý và hình thành nên những người đứng đầu các phân hệ. Mỗi phân hệ được chuyên môn hóa chỉ đảm nhận thực hiện một chức năng nhất định. Những người thừa hành nhiệm vụ ở cấp dưới nhận mệnh lệnh từ người quản lý cao nhất hệ thống và từ những người lãnh đạo các chức năng khác nhau (xem hình 2.18) Hình 2.18. Mô h nh cơ cấu chức năng 26] Cơ cấu chức năng thu hút được các chuyên gia vào công tác lãnh đạo, giải quyết các vấn đề chuyên môn một cách thành thạo hơn, đồng thời giảm bớt được gánh nặng về quản trị cho người lãnh đạo cao nhất của hệ thống. Cơ cấu chức năng có nhược điểm chủ yếu là người quản lý hệ thống phải điều phối, kết hợp các hoạt động của những người lãnh đạo chức năng. Vì khối lượng công tác quản lý lớn cho nên người lãnh đạo hệ thống khó có thể phối hợp được tất cả các mệnh lệnh của họ, dẫn đến tính trạng người thừa hành trong một lúc có thể phải thừa nhận nhiều mệnh lệnh, thậm chí các mệnh lệnh mâu thuẩn nhau, trái ngược nhau. 80 2.5.4.3. Cơ cấu trực tuyến – chức năng [26]. Để khắc phục nhược điểm của cơ cấu trực tuyến và cơ cấu chức năng, hiện nay kiểu cơ cấu liên hợp (trực tuyến chức năng) được áp dụng rộng rãi và phổ biến ở nhiều hệ thống (xem hình 2.19) Hình 2.19. Mô h nh cơ cấu trực tuyến – chức năng 26] cơ cấu này người lãnh đạo cấp cao của hệ thóng được trợ giúp của các cán bộ quản lý chức năng để chuẩn bị các quyết định, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện quyết định. Người quản lý cao nhất vẫn chịu trách nhiệm về mọi mặt công việc và toàn quyền quyết định trong phạm vi hệ thống, việc truyền mệnh lệnh vẫn theo tuyến đã quy định, các cán bộ quản lý ở các phân hệ chức năng vẫn phát huy được tài năng của mình, tuy họ không có quyền ra lệnh trực tiếp cho mọi thành viên trong hệ thống. 2.5.4.4. Cơ cấu phi hình thức [26]. Các hình thức cơ cấu quản lý đã nêu trên mang tính chính thức. Cơ cấu chính thức gắn liền với vai trò nhiệm vụ của các phần tử trong hệ thống được tổ chức một cách chính thức. Cơ cấu không chính thức là toàn bộ những cuộc tiếp xúc, khai thác cá nhân, các nhóm ngoài phạm vi cơ cấu chính thức của hệ thống. Cơ cấu không chính thức có vai trò to lớn trong thực tiễn quản lý. Nó không định hình và thay đổi, luôn luôn tồn tại cùng với cơ cấu chính thức. Nó có tác động nhất định, đôi khi rất đáng kể đến hoạt động của hệ thống. Cơ cấu phi hình thức là cơ cấu kết hợp cả hai hình thức chính thức và không chính thức (các cá nhân không chính thức nằm ở ngoài tổ chức) 81 2.5.5 Các công cụ hỗ trợ để quản lý xây dựng hạ ngầm các đƣờng dây, cáp đi nổi[18][58]. Một trong những công cụ hỗ trợ quản lý xây dựng ngầm hóa các đường dây, cáp đi nổi là hệ thống CSDL và các công nghệ hỗ trợ được phát triển bằng cách kết hợp các công nghệ thu thập, xây dựng và phân tích thông tin địa lý công trình, điển hình là công nghệ chụp ảnh dò tìm ngầm GPR (Ground Penetrating Radar), hệ thống định vị toàn cầu GPS (Global Positioning System) và hệ thống thông tin địa lý GIS (Geographic
File đính kèm:
- luan_an_quan_ly_xay_dung_ha_ngam_cac_duong_day_cap_di_noi_ta.pdf