Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 180 trang nguyenduy 24/06/2025 80
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau
03 - 0,12%P2O5 và độ dày than bùn 40 - 60 
cm và 60 - 80 cm là 0,03 - 0,07% P2O5. 
Theo Lê Văn Căn (1968) trong Đỗ Ánh (2003) khi %P2O5 tổng số dưới 
0,06 là đất nghèo lân, từ 0,06 - 0,1 là đất trung bình và trên 0,1 là đất giàu lân. 
Vậy từ kết quả trên ở 3 độ dày than bùn khảo sát đất có hàm lượng lân tổng số 
ở mức trung bình. Theo E.Detrunk (1931) trong Đỗ Ánh (2003) đất giàu lân 
mới có độ màu mỡ cao và ngược lại đất có độ màu mỡ cao đều giàu lân và 
giữa lân tổng số với năng suất cây trồng có mối tương quan thuận với nhau. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy đất than bùn là loại đất có độ màu mỡ ở mức 
trung bình. 
(Ghi chú: Đợt 1: 9/2014, Đợt 2: 11/2014, Đợt 3: 1/2015, Đợt 4: 9/2015) 
Hình 4.7 Hàm lượng lân tổng cộng trong đất ở các nghiệm thức 
Tuy nhiên, giữa các đợt khảo sát thì lân tổng cộng khác biệt có ý nghĩa 
thống kê 5% rõ nhất là đợt 3 so với các đợt khác. Ở lần khảo sát đợt 2, lân 
tổng cộng có giá trị thấp nhất ở cả 3 độ dày than bùn, ở lần này hàm lượng lân 
tổng số trong đất là 0,03 - 0,05%P2O5. Có sự khác biệt này là do ảnh hưởng 
bởi quá trình khoáng hóa lân hữu cơ. Đất than bùn ở các ô nghiên cứu chủ yếu 
được hình thành từ xác bã thực vật. Vì vậy, lân tồn tại trong đất than bùn chủ 
yếu là dạng lân hữu cơ, lân hữu cơ sẽ được chuyển hóa thành lân vô cơ, nhờ 
 56 
vào hoạt động của nhóm vi sinh vật phân hủy photpho hữu cơ (quá trình 
khoáng hóa lân hữu cơ) giúp cây có thể hấp thụ được. Tuy nhiên, kết quả cho 
thấy lân tổng số trong đất thấp, bên cạnh đó pH của đất cũng thấp dẫn đến lân 
hữu dụng trong đất cũng sẽ thấp, điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến sự sinh 
trưởng và phát triển của cây Tràm. 
4.1.9 Đánh giá chung về chất lượng đất than bùn 
Qua những kết quả trên, đất than bùn ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau là 
loại đất có độ xốp cao, dung trọng thấp dao động trong khoảng 0,19 - 0,37 
g/cm3 . Đất than bùn được hành thành từ quá trình phân hủy xác bã thực vật, 
do đó đất có hàm lượng các chất hữu cơ cao (83,71 - 94,00%). Đất có dung 
trọng <1 g/cm3 là loại đất giàu hữu cơ và có độ nén dẽ thấp. Đất than bùn nơi 
đây là loại đất phèn, pH dao động trong khoảng 3,41 - 4,84. Theo Agricultural 
Compendium (1989) đất có pH< 4,5 là loại đất cực kỳ chua. Về mặt chất dinh 
dưỡng trong đất thì đất than bùn là loại đất giàu đạm nhưng lân chỉ đạt ở mức 
trung bình, hàm lượng đạm trong đất rất cao từ 0,58 - 1,23%N, trong khi đó 
lân có giá trị là 0,03 - 0,12 %P2O5. Theo Đỗ Ánh (2003), đất có dưới 0,1%N là 
đất nghèo, từ 0,1 - 0,2%N là đất trung bình và trên 0,2%N là đất giàu và theo 
Lê Văn Căn (1968) trong Đỗ Ánh (2003) khi %P2O5 tổng số dưới 0,06 là đất 
nghèo lân, từ 0,06 - 0,1 là đất trung bình và trên 0,1 là đất giàu lân. 
Ngoài ra, số liệu còn cho thấy ở 3 độ dày than bùn khảo sát, chất lượng 
đất hầu như không có sự khác biệt về hàm lượng chất dinh dưỡng như đạm, 
lân, chất hữu cơ và pH. Dung trọng trong đất lại có sự khác biệt rõ rệt, đất có 
độ dày than bùn càng cao thì dung trọng càng thấp. Có sự khác biệt này là do 
đặc điểm của đất than bùn giàu chất hữu cơ và phân hủy chậm trong điều kiện 
môi trường ngập nước, do đó lớp than bùn bên dưới quá trình phân hủy các 
hợp chất hữu cơ diễn ra chậm hơn so với các lớp đất than bùn bên trên từ đó 
dẫn đến dung trọng ở tầng này có giá trị thấp. 
Tuy chất lượng đất không có sự khác biệt ở các độ dày than bùn khác 
nhau nhưng trong cùng một độ dày than bùn lại có sự khác biệt qua các đợt 
khảo sát khác nhau. Sự khác biệt này là do ảnh hưởng bởi điều kiện môi 
trường (mưa, nắng,) tại thời điểm khảo sát cũng như ảnh hưởng bởi chế độ 
giữ nước phòng cháy của rừng Tràm. 
 57 
4.2 Sinh trưởng và sinh khối cây Tràm ở 3 độ dày than bùn khác nhau 
4.2.1 Các chỉ tiêu sinh học và sinh khối của rừng Tràm ở 3 độ dày than 
bùn khác nhau 
 Để xem xét mối quan hệ của độ dày than bùn đến sinh khối rừng Tràm 
thì các chỉ tiêu sinh học của cây Tràm được khảo sát và tính toán như: đường 
kính ngang ngực (DBH), chiều cao dưới cành (Hdc), chiều cao vút ngọn (Hvn), 
mật độ và sinh khối của cá thể cây Tràm. Kết quả khảo sát và đo đếm cây ở 3 
độ dày than bùn: 20 – 40 cm, 40 – 60 cm và 60 – 80 cm được thể hiện ở Bảng 
4.2. 
Bảng 4.2 Các chỉ tiêu sinh học của cây Tràm ở các độ dày than bùn khác nhau 
Độ dày 
than bùn 
(cm) 
DBH 
(cm) 
Hdc 
(m) 
Hvn 
(m) 
Mật độ 
(cây/ha) 
Sinh 
khối khô 
(kg/cây) 
20-40 15,93±3,35a 10,2±2,1a 13,6±2a 1.623±327a 60,7±27a 
40-60 17,95±4,33b 9,9±2,3a 14,3±2a 1.048±120b 78,9±38b 
60-80 17,85±4,06b 10,1±1,9a 13,8±1,9a 936±131c 77,4±37b 
Ghi chú: Trung bình ± SD ; Các con số có chữ cái theo sau trong từng cột khác nhau thì sẽ khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (kiểm định Duncan P<0,05). 
Bảng 4.2 cho thấy ở 3 độ dày than bùn nghiên cứu thì chỉ tiêu chiều cao 
của cây Tràm hầu như không có sự khác biệt. Riêng mật độ Tràm lại có sự 
khác biệt ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa các độ dày than bùn khác nhau. Các 
chỉ tiêu khảo sát được thảo luận chi tiết ở các nội dung bên dưới. 
 58 
Bảng 4.3 Số liệu đo đếm cây cá Tràm cá thể ở các nghiệm thức 
Ô 
mẫu 
Độ dày 
than 
bùn 
Chiều cao vút 
ngọn (m) 
Chiều cao dưới 
cành (m) 
Đường kính 
trung bình (cm) 
Sinh khối khô 
cây (kg/cây) 
1 
20 – 40 
cm 
13,1a ± 1,8 9,8abcd ± 1,2 16,8abc ± 3,1 71abc±27 
2 13,6abc ± 1,6 10,4abcd ± 1,5 18,0abcd ± 3,9 78abc±35 
3 12,6a ± 1,6 8,6a ± 1,4 14,7a ± 4 52a±29 
4 13,4ab ± 2,3 10,8bcd ± 2,4 15,5ab ± 3,3 57ab±25 
5 13,2a ±2 10,3abcd ± 1,9 15,4ab ± 2,7 55ab±20 
6 15,3cd ± 1,2 11,1abcd ± 2,4 16,0abc ± 2,9 60abc±24 
7 
40 – 60 
cm 
13,8abc ± 0,8 10,3abcd ± 1 18,2abcd ± 2,8 78abc±26 
8 13,6abc ± 1,1 9,2abc ± 1,7 16,5abc ± 3,8 65abc±33 
9 13,7abc±1,6 10,8bcd ± 1,6 17,8abc ± 4,3 77abc±38 
10 17e ± 0,5 10,5d ± 0,2 21,6d ± 3,5 113d±37 
11 15,6de ± 1,4 9,5abcd ± 2,5 18,9bcd±4,6 88bcd±40 
12 13a ± 0,3 8,9ab ± 3,4 16abc±5,3 65abc±41 
13 
60 – 80 
cm 
14abcd±0,1 10,4abcd±0,6 19,5cd±3,3 91cd±33 
14 14abcd±0,6 10,2abcd±0,4 18,4abcd±2,3 79abc±22 
15 14abcd±0,77 10,2abcd±0,6 18,2abcd±3,2 78abc±29 
16 13,6abc±3,1 10abcd±3,3 16,5abc±5 68abc±39 
17 15bcd±1,6 11cd±2,6 18,4abcd±5,9 86bcd±61 
18 12,5a±2,9 8,2ab±2,2 10,6abc±4,5 61abc±38 
4.2.1.1 Mật độ Tràm 
Kết quả đo đếm tất cả cây Tràm trong ô tiêu chuẩn ở các nghiệm thức 
Tràm có độ dày than bùn khác nhau cho thấy, mật độ Tràm dao động từ 1.100 
– 2.000 cây/ha. Theo Văn bản tiêu chuẩn kỹ thuật lâm sinh của Bộ NN&PTNT 
(2001), đối với rừng Tràm thành thục có đường kính lớn hơn 14 cm nếu mật 
 59 
độ dưới 1.000 cây/ha thì được xem là thưa và mật độ Tràm từ 1.000 – 2.000 
cây/ha được xem là trung bình và lớn hơn 2.000 cây/ha là dày. Vậy Tràm ở 
các ô tiêu chuẩn tại VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau có mật độ ở mức trung 
bình. 
Hình 4.8 Mật độ Tràm ở các độ dày than bùn khác nhau 
So sánh mật độ cây Tràm ở 3 nghiệm thức nghiên cứu cho thấy: Mật độ 
có xu hướng giảm dần ở nghiệm thức có độ dày tầng than bùn cao. Đối với các 
vị trí Tràm có độ dày than bùn 20 - 40 cm, mật độ cây là 1.623±327 cây/ha, độ 
dày than bùn từ 40 - 60 cm có mật độ 1.048±120 cây/ha và mật độ Tràm thấp 
nhất ở có độ dày than bùn 60 - 80 cm (936±131 cây/ha). Giữa các nghiệm thức 
Tràm có độ dày than bùn khác nhau có sự chênh lệch về mật độ cũng tương 
đối cao và khác biệt có ý nghĩa (P<0,05). Điều này phù hợp với nghiên cứu 
của Nguyễn Văn Thêm (2008) ảnh hưởng của đất đến rừng là giúp cây đứng 
vững nhưng đất có độ dày than bùn càng cao thì độ xốp của đất càng cao, ảnh 
hưởng đến khả năng bám của hệ rễ làm cho cây dễ bị đổ ngã do mưa bão hay 
gió mạnh và cây bị chết. 
Một nghiên cứu tương tự của tác giả cũng được thực hiện tại VQG U 
Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang – Nơi có điều kiện rừng Tràm trên đất than 
bùn giống VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau: kết quả đếm tất cả số cây trong 12 
ô tiêu chuẩn (diện tích 100 m2/ô) cho thấy mật độ Tràm ở độ ngập <60 cm là 
0,7 cây/m2 (7.000 cây/ha) khác biệt có ý nghĩa và cao hơn nghiệm thức Tràm 
có độ ngập >60 cm là 0,54 cây/m2 (5.400 cây/ha) dù mật độ trồng rừng ban 
 60 
đầu ở đây đều giống nhau là 1 cây/m2. Rừng Tràm ở VQG U Minh Thượng, 
tỉnh Kiên Giang có tuổi nhỏ hơn so với VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau và đây 
là Tràm trồng tái sinh nên có mật độ rất dày. Rừng trồng thường có mật độ rất 
dày. Nghiên cứu của Phạm Xuân Quý (2006) về Ảnh hưởng của mật độ trồng 
rừng ban đầu đến sinh trưởng và chất lượng rừng trồng Tràm (Melaleuca 
cajuputi) ở Long An cho thấy Tràm trồng có mật độ từ 10.000 – 40.000 cây/ha 
và ở các lâm phần có mật độ 10.000 cây/ha cho đường kính và chiều cao lớn 
hơn rất nhiều so với mật độ 40.000 cây/ha. 
4.2.1.2 Đường kính ngang ngực (DBH) và chiều cao (Hdc, Hvn) 
Để khảo sát đặc điểm sinh học giữa các nghiệm thức Tràm có độ dày 
than bùn khác nhau có sự khác biệt hay không, nghiên cứu đã tiến hành thống 
kê các chỉ tiêu DBH, Hvn và Hdc để tìm ra các giá trị trung bình và so sánh. Ở 
nghiệm thức Tràm có mật độ càng cao, không gian sống bị thu hẹp nên các cá 
thể phải vươn cao để cạnh tranh về ánh sáng, mật độ càng dày thì cây chủ yếu 
phát triển theo chiều cao nên đường kính sẽ nhỏ. Mặt khác, với mật độ thưa có 
đủ ánh sáng nên cây phát triển theo chiều ngang nhiều hơn điều này ảnh 
hưởng đến đường kính trung bình của cây trong các nghiệm thức. 
Hình 4.9 Đường kính của cây Tràm ở các nghiệm thức độ dày than bùn khác nhau 
Hình 4.9 cho thấy, đối với nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn từ 20 - 
40 cm thì cây có đường kính trung bình là 15,93 cm±3,35 thấp hơn và khác 
biệt có ý nghĩa (P<0,05) so với nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn cao hơn. 
 61 
Tràm có đường kính cao nhất là ở độ dày than bùn 40 – 60 cm (17,95 
cm±4,33), còn ở độ dày than bùn 60 – 80 cm đường kính ngang ngực ở mức 
trung bình (17,85 cm±4,06). 
So với kết quả về mật độ thì giá trị đường kính cho kết quả gần như 
ngược lại: ở độ dày than bùn 20 – 40 cm có mật độ cây cao hơn 2 độ dày than 
bùn còn lại thì đường kính có giá trị thấp hơn. Các vị trí Tràm có mật độ càng 
cao, không gian sống càng bị thu hẹp nên các cây cá thể chủ yếu phát triển 
theo chiều cao và đường kính sẽ nhỏ. Nguyễn Quang Trung (2007) nghiên cứu 
sử dụng gỗ Tràm (Melaleuca cajuputi) làm nguyên liệu sản xuất ván dăm ở 
lâm ngư trường sông Trẹm, Cà Mau cho kết quả trong cùng một khu rừng, 
cùng cấp tuổi nhưng có sự chênh lệch khá lớn về chiều cao, đường kính giữa 
các cây, độ đồng đều thấp. 
Đối với chiều cao dưới cành, cây Tràm ở các nghiệm thức có chiều cao 
trung bình là 13 - 15 m, cao hơn so với nghiên cứu của Tanit Nuyim (2003) 
đối với cây Tràm trên đất than bùn ở Thái Lan, khi Tràm từ 10 - 14 năm tuổi 
sẽ có chiều cao vút ngọn từ 8,5 – 10 m và mật độ cây sẽ giảm từ 83% xuống 
còn 41% , do ở các ô nghiên cứu ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau có tuổi 
Tràm lớn hơn. Kết quả này cũng giống với nghiên cứu của Phùng Trung Ngân 
(1987) trong Thái Văn Trừng (1998) rừng Tràm trên đất than bùn có tầng cây 
bụi thấp vẫn còn giữ nguyên, Tràm ở đây cao đến 10 – 15 m và mang nhiều 
dây leo quấn quanh thân. 
Hình 4.10 cho thấy, chiều cao vút ngọn và chiều cao dưới cành của cây 
Tràm không có sự khác biệt ở các độ dày than bùn khác nhau. Điều này có thể 
là do mật độ cây ở đây thuộc vào nhóm có mật độ trung bình và thưa nên sự 
phát triển của cây cá thể không cạnh tranh nhiều về ánh sáng và dinh dưỡng 
nên chiều cao cây tương đối đồng đều. 
 62 
Hình 4.10 Chiều cao dưới cành của cây Tràm ở các nghiệm thức 
Đối với chiều cao dưới cành, độ dày than bùn 20 – 40 cm có số liệu dao 
động từ 6 – 14 m, tiếp theo ở độ dày 40 – 60 cm (4 – 14 m) và độ dày than bùn 
60 – 80 cm có giá trị từ 5 – 14 m. Mặc dù giữa các nghiệm thức không có sự 
khác biệt về giá trị này nhưng trong từng ô mẫu thì chiều cao cây có sự chênh 
lệch khá nhiều. 
Đối với chiều cao tới ngọn, nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn 20 – 
40 cm có giá trị trung bình là 13,6 m±2, ở độ dày 40 – 60 cm Tràm có chiều 
cao vút ngọn trung bình cao nhất (14,3 m±2) và thấp nhất ở độ dày than bùn 
60 – 80 cm (13,8 m±1,9). Chiều cao của cây ở các ô mẫu nghiên cứu thì có sự 
khác biệt (P<0,05). 
 63 
Hình 4.11 Chiều cao vút ngọn của cây Tràm ở các nghiệm thức 
4.2.1.3 Sinh khối khô cây Tràm và sinh khối rừng Tràm tại VQG U 
Minh Hạ, tỉnh Cà Mau 
Việc đánh giá sinh khối cây rừng có ý nghĩa quan trọng trong việc quản 
lý, sử dụng rừng (Viên Ngọc Nam, 1996). Sinh khối khô cây Tràm tại VQG U 
Minh Hạ, tỉnh Cà Mau khác biệt có ý nghĩa giữa đất Tràm có độ dày than bùn 
20 – 40 cm và hai độ dày than bùn còn lại (40 – 60 cm và 60 - 80 cm). Ở độ 
dày than bùn 20 – 40 cm, sinh khối khô cây Tràm có giá trị trung bình thấp 
nhất (60,7 kg/cây). Ở hai nghiệm thức còn lại (40 – 60 cm và 60 - 80 cm), sinh 
khối khô trung bình cây Tràm có giá trị lần lượt là 78,9 kg/cây và 77,4 kg/cây. 
Các cây Tràm ở hai nghiệm thức này có đường kính ngang ngực lớn nên dẫn 
đến sinh khối cây lớn. Sinh khối cây Tràm tập trung phần lớn là ở thân cây, 
Tràm có tuổi càng cao có xu hướng cho sinh khối càng lớn. Kết quả này cũng 
phù hợp với những nhận xét của nhiều tác giả khác trong nghiên cứu về sản 
lượng và sinh khối của các loài cây gỗ ở Việt Nam và thế giới (Lê Hồng Phúc, 
1994). 
 64 
Hình 4.12 Sinh khối khô của cây Tràm ở các nghiệm thức 
Sinh khối khô rừng phụ thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu sinh học của cây 
Tràm và mật độ Tràm tại vùng nghiên cứu. Theo Phạm Thế Dũng và Vũ Đình 
Hưởng (2014), với nghiên cứu “Sinh khối và giá trị năng lượng rừng Tràm ở 
Long An” cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa các bộ phận sinh khối 
cây cá thể và nhân tố điều tra lâm phần. Trong kết quả nghiên cứu ở Hình 4.13 
thể hiện sinh khối khô của rừng Tràm tại các nghiệm thức dao động từ 72,3 – 
95,9 tấn/ha và sinh khối có xu hướng giảm dần khi độ dày tầng than bùn cao 
hơn. Giá trị sinh khối rừng cao nhất ở độ dày than bùn 20 – 40 cm (95,9 
tấn/ha), thấp nhất ở độ dày than bùn 60 – 80 cm (72,3 tấn/ha) và ở độ dày than 
bùn 40 – 60 cm có giá trị 81,1 tấn/ha. 
Mặc dù sinh khối cây cá thể ở độ dày than bùn 20 – 40 cm có giá trị thấp 
nhất nhưng do ở nghiệm thức này, rừng có mật độ là cao nhất và có sự khác 
biệt ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với hai nghiệm thức còn lại nên dẫn đến sinh 
khối rừng cao hơn (95,9 tấn/ha). 
 65 
Hình 4.13 Sinh khối khô rừng Tràm ở các nghiệm thức 
4.2.2 Các loài thực vật bậc cao trong rừng Tràm ở các độ dày than bùn 
khác nhau 
Khảo sát các thành phần loài thực vật bậc cao trong rừng Tràm VQG U 
Minh Hạ, tỉnh Cà Mau cho thấy có 27 loài. Ở các độ dày than bùn thì số lượng 
loài thực vật bậc cao tăng dần khi độ dày than bùn càng cao. Ở độ dày than 
bùn từ 20 – 40 cm số lượng loài thấp nhất (9 loài), kế tiếp là độ dày than bùn 
từ 40 – 60 cm (12 loài) và số lượng loài nhiều nhất ở độ dày than bùn từ 60 - 
80 cm (14 loài). Nguyên nhân lý giải cho hiện trạng trên có thể là, ở độ dày 
than bùn thấp mật độ Tràm còn cao, vì vậy các loài thực vật bậc cao khác phải 
cạnh tranh với cây Tràm để giành không gian sống và các yếu tố về dinh 
dưỡng, ánh sáng,Khi độ dày than bùn tăng, mật độ Tràm ở đây đã giảm 
xuống kết hợp với điều kiện ẩm ướt và độ tơi xốp cao của đất than bùn tạo 
điều kiện thích hợp cho sự phát triển các loài thực vật bậc cao và cây bụi, dây 
leo sẽ chiếm ưu thế dần (Thái Văn Trừng, 1998). 
Nhóm thực vật thân gỗ gồm có cây Tràm (Melaleuca cajuputi), Tràm 
bông vàng (Acacia auriculiformis), trâm (Eugenia zeylanica), bùi (Ilex 
thorelli) và móp (Alstonia spathulata) chiếm tỉ lệ 18,5% số loài khảo sát được. 
Nhóm thực vật thảm tươi cũng chiếm tỉ lệ 22,2% số loài khảo sát bao gồm sậy 
(Phragmites karka),choại (Stenocholena palustris), dớn (Blechnum 
serrulentum), cỏ 3 cạnh (Cyperus compactus), mây nước (Flagellaria indica), 
cỏ bắc (Leersia hexandra). Nhóm thân leo, bò chiếm tỉ lệ cao nhất 40,8 % 
gồm cứt quạ lớn (Gymnopetalum integrifolium), bòng bong (Lygodium 
microphylum), chìa vôi (Cissus modeccoides), dây giác (Cayratia 
trifolia),.Nhóm cây thân bụi có tỉ lệ thấp 18,5 % bao gồm bình bát (Annona 
 66 
glabra), bí bái (Evodia lepta), múi (Glochidion littorale), 
Hình 4.14 Các loài thực vật bậc cao trong rừng Tràm độ dày than bùn 60 - 80 cm 
Ở các độ dày than bùn khác nhau mức độ đa dạng loài thực vật bậc cao 
cũng khác nhau: Đa dạng loài thực vật bậc cao cao nhất ở độ dày than bùn 60 - 
80 cm (H=3,95), kế tiếp là độ dày than bùn 40 - 60 cm (H=2,77) và thấp nhất 
là độ dày than bùn 20 - 40 cm (H=1,5). Như vậy, khi độ dày than bùn càng 
cao, mật độ cây thân gỗ (Tràm) càng thấp và số loài cây bụi, dây leo sẽ nhiều 
hơn. 
4.2.3 Hồi qui đa biến của sinh khối rừng ở các độ dày than bùn và các chỉ 
tiêu chất lượng môi trường đất 
Khi xem xét mô hình hồi qui tuyến tính đa biến của sinh khối rừng ở các 
độ dày than bùn và các chỉ tiêu chất lượng môi trường đất như dung trọng, pH, 
tổng đạm, tổng lân, chất hữu cơ, N-NO3- và N-NH4+ cho thấy: các chỉ tiêu 
dung trọng và chất hữu cơ tác động rõ đến sinh khối khô của rừng Tràm 
(P<0,05). Khi dung trọng càng tăng và khi hàm lượng chất hữu cơ giảm thì sẽ 
làm cho sinh khối khô của rừng Tràm gia tăng. Các chỉ tiêu khác như pH, tổng 
đạm, tổng lân, N-NO3- và N-NH4+ của độ dày tầng than bùn thì chưa thể hiện 
rõ sự tác động lên yếu tố sinh khối. Có ảnh hường theo mùa (sig.=0,072 < 0,1) 
nên chấp nhận trong các hàm đa biến vì sig.< 0,05 như trong tính toán xây dựng 
phương trình. 
 67 
Skthanbun=138,927*dungtrong–18,7mua-2,753*CHC 
(Ghi chú: Skthanbun: Sinh khối tràm ở các độ dày than bùn; Dungtrong: Dung 
trọng; Mua: Mùa; CHC: Chất hữu cơ) 
Như vây, yếu tố dung trọng, mùa và chất hữu cơ có ảnh hưởng đến sinh khối. 
4.2.4 Nhận xét chung chất lượng đất than bùn và sinh khối rừng Tràm ở 
các nghiệm thức độ dày than bùn khác nhau 
Kết quả phân tích chất lượng đất than bùn ở 3 nghiệm thức độ dày than 
bùn khác nhau cho thấy, đất than bùn ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau có một 
số chỉ tiêu như sau: 
- Dung trọng: tương đối thấp dao động trong khoảng 0,19 - 0,37 
g/cm3 và có sự khác biệt giữa các nghiệm thức. Đây là yếu tố ảnh 
hưởng đến sinh khối rừng. 
- pH đất: Đây là loại đất phèn rất chua: pH từ 3,37 – 4,46 và có sự 
khác biệt giữa các nghiệm thức; 
- Hàm lượng chất hữu cơ trong đất than bùn là rất cao, ở cả 3 độ 
dày than bùn khảo sát hàm lượng chất hữu cơ dao động trong 
khoảng 83,71 - 94,00 và là yếu tố có ảnh hưởng đến sinh khối 
rừng. 
- Hàm lượng N-NO3- từ 0,23 - 2,85 mg/kg và có sự khác biệt giữa 
mùa nắng và mùa mưa; 
- Hàm lượng đạm tổng số cũng tương đối cao, đất khá giàu đạm và 
có giá trị từ 0,58 - 1,23%N; 
- Hàm lượng lân tổng số chỉ ở mức trung bình, dao động từ 0,03 - 
0,12%P2O5. 
Như vậy, hàm lượng chất hữu cơ, đạm tổng số và lân tổng số ở 3 
nghiệm thức không có sự khác biệt. 
Các chỉ tiêu khảo sát cây cá thể của rừng Tràm cho kết quả như sau: 
- Mật độ Tràm dao động từ 1.100 – 2.000 cây/ha, thuộc nhóm có 
mật độ trung bình và có sự khác biệt ở cả 3 nghiệm thức: Độ dày 
than bùn càng cao, mật độ càng thấp; 
- Đường kính: Các nghiệm thức nghiên cứu có đường kính cây dao 
động từ 8,4 – 28,7 cm. Tràm có độ dày than bùn từ 20 - 40 cm có 
đường kính trung bình thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa (P<0,05) 
so với 2 nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn cao hơn; 
- Chiều cao vút ngọn (7 – 18 m) và chiều cao dưới cành (4 – 14 m) 
của cây Tràm không có sự khác biệt ở các độ dày than bùn khác 
nhau; 
 68 
- Sinh khối khô cây Tràm: Ở độ dày than bùn 20 – 40 cm, sinh khối 
khô cây Tràm có giá trị thấp nhất (60,7 kg/cây) và khác biệt ý 
nghĩa với 2 nghiệm thức còn lại. Ở hai độ dày than bùn còn lại (40 
– 60 cm và 60 - 80 cm), sinh khối tươi cây Tràm có giá trị lần lượt 
là 78,9 kg/cây và 77,4 kg/cây; 
- Sinh khối khô rừng Tràm: sinh khối của rừng Tràm tại các nghiệm 
thức nghiên cứu dao động từ 72 - 96 tấn/ha và sinh khối có xu 
hướng giảm dần khi độ dày tầng than bùn cao hơn. Sinh khối rừng 
độ dày than bùn 20 – 40 cm cao nhất (96 tấn/ha) và khác biệt ý 
nghĩa với sinh khối rừng độ dày than bùn

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_anh_huong_cua_dat_than_bun_va_che_do_ngap.pdf
  • docThongtinluanan-En.doc
  • docThongtinluanan-Vi.doc
  • pdfTomtatluanan-En.pdf
  • pdfTomtatluanan-Vi.pdf