Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau

03 - 0,12%P2O5 và độ dày than bùn 40 - 60 cm và 60 - 80 cm là 0,03 - 0,07% P2O5. Theo Lê Văn Căn (1968) trong Đỗ Ánh (2003) khi %P2O5 tổng số dưới 0,06 là đất nghèo lân, từ 0,06 - 0,1 là đất trung bình và trên 0,1 là đất giàu lân. Vậy từ kết quả trên ở 3 độ dày than bùn khảo sát đất có hàm lượng lân tổng số ở mức trung bình. Theo E.Detrunk (1931) trong Đỗ Ánh (2003) đất giàu lân mới có độ màu mỡ cao và ngược lại đất có độ màu mỡ cao đều giàu lân và giữa lân tổng số với năng suất cây trồng có mối tương quan thuận với nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy đất than bùn là loại đất có độ màu mỡ ở mức trung bình. (Ghi chú: Đợt 1: 9/2014, Đợt 2: 11/2014, Đợt 3: 1/2015, Đợt 4: 9/2015) Hình 4.7 Hàm lượng lân tổng cộng trong đất ở các nghiệm thức Tuy nhiên, giữa các đợt khảo sát thì lân tổng cộng khác biệt có ý nghĩa thống kê 5% rõ nhất là đợt 3 so với các đợt khác. Ở lần khảo sát đợt 2, lân tổng cộng có giá trị thấp nhất ở cả 3 độ dày than bùn, ở lần này hàm lượng lân tổng số trong đất là 0,03 - 0,05%P2O5. Có sự khác biệt này là do ảnh hưởng bởi quá trình khoáng hóa lân hữu cơ. Đất than bùn ở các ô nghiên cứu chủ yếu được hình thành từ xác bã thực vật. Vì vậy, lân tồn tại trong đất than bùn chủ yếu là dạng lân hữu cơ, lân hữu cơ sẽ được chuyển hóa thành lân vô cơ, nhờ 56 vào hoạt động của nhóm vi sinh vật phân hủy photpho hữu cơ (quá trình khoáng hóa lân hữu cơ) giúp cây có thể hấp thụ được. Tuy nhiên, kết quả cho thấy lân tổng số trong đất thấp, bên cạnh đó pH của đất cũng thấp dẫn đến lân hữu dụng trong đất cũng sẽ thấp, điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây Tràm. 4.1.9 Đánh giá chung về chất lượng đất than bùn Qua những kết quả trên, đất than bùn ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau là loại đất có độ xốp cao, dung trọng thấp dao động trong khoảng 0,19 - 0,37 g/cm3 . Đất than bùn được hành thành từ quá trình phân hủy xác bã thực vật, do đó đất có hàm lượng các chất hữu cơ cao (83,71 - 94,00%). Đất có dung trọng <1 g/cm3 là loại đất giàu hữu cơ và có độ nén dẽ thấp. Đất than bùn nơi đây là loại đất phèn, pH dao động trong khoảng 3,41 - 4,84. Theo Agricultural Compendium (1989) đất có pH< 4,5 là loại đất cực kỳ chua. Về mặt chất dinh dưỡng trong đất thì đất than bùn là loại đất giàu đạm nhưng lân chỉ đạt ở mức trung bình, hàm lượng đạm trong đất rất cao từ 0,58 - 1,23%N, trong khi đó lân có giá trị là 0,03 - 0,12 %P2O5. Theo Đỗ Ánh (2003), đất có dưới 0,1%N là đất nghèo, từ 0,1 - 0,2%N là đất trung bình và trên 0,2%N là đất giàu và theo Lê Văn Căn (1968) trong Đỗ Ánh (2003) khi %P2O5 tổng số dưới 0,06 là đất nghèo lân, từ 0,06 - 0,1 là đất trung bình và trên 0,1 là đất giàu lân. Ngoài ra, số liệu còn cho thấy ở 3 độ dày than bùn khảo sát, chất lượng đất hầu như không có sự khác biệt về hàm lượng chất dinh dưỡng như đạm, lân, chất hữu cơ và pH. Dung trọng trong đất lại có sự khác biệt rõ rệt, đất có độ dày than bùn càng cao thì dung trọng càng thấp. Có sự khác biệt này là do đặc điểm của đất than bùn giàu chất hữu cơ và phân hủy chậm trong điều kiện môi trường ngập nước, do đó lớp than bùn bên dưới quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ diễn ra chậm hơn so với các lớp đất than bùn bên trên từ đó dẫn đến dung trọng ở tầng này có giá trị thấp. Tuy chất lượng đất không có sự khác biệt ở các độ dày than bùn khác nhau nhưng trong cùng một độ dày than bùn lại có sự khác biệt qua các đợt khảo sát khác nhau. Sự khác biệt này là do ảnh hưởng bởi điều kiện môi trường (mưa, nắng,) tại thời điểm khảo sát cũng như ảnh hưởng bởi chế độ giữ nước phòng cháy của rừng Tràm. 57 4.2 Sinh trưởng và sinh khối cây Tràm ở 3 độ dày than bùn khác nhau 4.2.1 Các chỉ tiêu sinh học và sinh khối của rừng Tràm ở 3 độ dày than bùn khác nhau Để xem xét mối quan hệ của độ dày than bùn đến sinh khối rừng Tràm thì các chỉ tiêu sinh học của cây Tràm được khảo sát và tính toán như: đường kính ngang ngực (DBH), chiều cao dưới cành (Hdc), chiều cao vút ngọn (Hvn), mật độ và sinh khối của cá thể cây Tràm. Kết quả khảo sát và đo đếm cây ở 3 độ dày than bùn: 20 – 40 cm, 40 – 60 cm và 60 – 80 cm được thể hiện ở Bảng 4.2. Bảng 4.2 Các chỉ tiêu sinh học của cây Tràm ở các độ dày than bùn khác nhau Độ dày than bùn (cm) DBH (cm) Hdc (m) Hvn (m) Mật độ (cây/ha) Sinh khối khô (kg/cây) 20-40 15,93±3,35a 10,2±2,1a 13,6±2a 1.623±327a 60,7±27a 40-60 17,95±4,33b 9,9±2,3a 14,3±2a 1.048±120b 78,9±38b 60-80 17,85±4,06b 10,1±1,9a 13,8±1,9a 936±131c 77,4±37b Ghi chú: Trung bình ± SD ; Các con số có chữ cái theo sau trong từng cột khác nhau thì sẽ khác biệt có ý nghĩa thống kê (kiểm định Duncan P<0,05). Bảng 4.2 cho thấy ở 3 độ dày than bùn nghiên cứu thì chỉ tiêu chiều cao của cây Tràm hầu như không có sự khác biệt. Riêng mật độ Tràm lại có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa các độ dày than bùn khác nhau. Các chỉ tiêu khảo sát được thảo luận chi tiết ở các nội dung bên dưới. 58 Bảng 4.3 Số liệu đo đếm cây cá Tràm cá thể ở các nghiệm thức Ô mẫu Độ dày than bùn Chiều cao vút ngọn (m) Chiều cao dưới cành (m) Đường kính trung bình (cm) Sinh khối khô cây (kg/cây) 1 20 – 40 cm 13,1a ± 1,8 9,8abcd ± 1,2 16,8abc ± 3,1 71abc±27 2 13,6abc ± 1,6 10,4abcd ± 1,5 18,0abcd ± 3,9 78abc±35 3 12,6a ± 1,6 8,6a ± 1,4 14,7a ± 4 52a±29 4 13,4ab ± 2,3 10,8bcd ± 2,4 15,5ab ± 3,3 57ab±25 5 13,2a ±2 10,3abcd ± 1,9 15,4ab ± 2,7 55ab±20 6 15,3cd ± 1,2 11,1abcd ± 2,4 16,0abc ± 2,9 60abc±24 7 40 – 60 cm 13,8abc ± 0,8 10,3abcd ± 1 18,2abcd ± 2,8 78abc±26 8 13,6abc ± 1,1 9,2abc ± 1,7 16,5abc ± 3,8 65abc±33 9 13,7abc±1,6 10,8bcd ± 1,6 17,8abc ± 4,3 77abc±38 10 17e ± 0,5 10,5d ± 0,2 21,6d ± 3,5 113d±37 11 15,6de ± 1,4 9,5abcd ± 2,5 18,9bcd±4,6 88bcd±40 12 13a ± 0,3 8,9ab ± 3,4 16abc±5,3 65abc±41 13 60 – 80 cm 14abcd±0,1 10,4abcd±0,6 19,5cd±3,3 91cd±33 14 14abcd±0,6 10,2abcd±0,4 18,4abcd±2,3 79abc±22 15 14abcd±0,77 10,2abcd±0,6 18,2abcd±3,2 78abc±29 16 13,6abc±3,1 10abcd±3,3 16,5abc±5 68abc±39 17 15bcd±1,6 11cd±2,6 18,4abcd±5,9 86bcd±61 18 12,5a±2,9 8,2ab±2,2 10,6abc±4,5 61abc±38 4.2.1.1 Mật độ Tràm Kết quả đo đếm tất cả cây Tràm trong ô tiêu chuẩn ở các nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn khác nhau cho thấy, mật độ Tràm dao động từ 1.100 – 2.000 cây/ha. Theo Văn bản tiêu chuẩn kỹ thuật lâm sinh của Bộ NN&PTNT (2001), đối với rừng Tràm thành thục có đường kính lớn hơn 14 cm nếu mật 59 độ dưới 1.000 cây/ha thì được xem là thưa và mật độ Tràm từ 1.000 – 2.000 cây/ha được xem là trung bình và lớn hơn 2.000 cây/ha là dày. Vậy Tràm ở các ô tiêu chuẩn tại VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau có mật độ ở mức trung bình. Hình 4.8 Mật độ Tràm ở các độ dày than bùn khác nhau So sánh mật độ cây Tràm ở 3 nghiệm thức nghiên cứu cho thấy: Mật độ có xu hướng giảm dần ở nghiệm thức có độ dày tầng than bùn cao. Đối với các vị trí Tràm có độ dày than bùn 20 - 40 cm, mật độ cây là 1.623±327 cây/ha, độ dày than bùn từ 40 - 60 cm có mật độ 1.048±120 cây/ha và mật độ Tràm thấp nhất ở có độ dày than bùn 60 - 80 cm (936±131 cây/ha). Giữa các nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn khác nhau có sự chênh lệch về mật độ cũng tương đối cao và khác biệt có ý nghĩa (P<0,05). Điều này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Thêm (2008) ảnh hưởng của đất đến rừng là giúp cây đứng vững nhưng đất có độ dày than bùn càng cao thì độ xốp của đất càng cao, ảnh hưởng đến khả năng bám của hệ rễ làm cho cây dễ bị đổ ngã do mưa bão hay gió mạnh và cây bị chết. Một nghiên cứu tương tự của tác giả cũng được thực hiện tại VQG U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang – Nơi có điều kiện rừng Tràm trên đất than bùn giống VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau: kết quả đếm tất cả số cây trong 12 ô tiêu chuẩn (diện tích 100 m2/ô) cho thấy mật độ Tràm ở độ ngập <60 cm là 0,7 cây/m2 (7.000 cây/ha) khác biệt có ý nghĩa và cao hơn nghiệm thức Tràm có độ ngập >60 cm là 0,54 cây/m2 (5.400 cây/ha) dù mật độ trồng rừng ban 60 đầu ở đây đều giống nhau là 1 cây/m2. Rừng Tràm ở VQG U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang có tuổi nhỏ hơn so với VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau và đây là Tràm trồng tái sinh nên có mật độ rất dày. Rừng trồng thường có mật độ rất dày. Nghiên cứu của Phạm Xuân Quý (2006) về Ảnh hưởng của mật độ trồng rừng ban đầu đến sinh trưởng và chất lượng rừng trồng Tràm (Melaleuca cajuputi) ở Long An cho thấy Tràm trồng có mật độ từ 10.000 – 40.000 cây/ha và ở các lâm phần có mật độ 10.000 cây/ha cho đường kính và chiều cao lớn hơn rất nhiều so với mật độ 40.000 cây/ha. 4.2.1.2 Đường kính ngang ngực (DBH) và chiều cao (Hdc, Hvn) Để khảo sát đặc điểm sinh học giữa các nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn khác nhau có sự khác biệt hay không, nghiên cứu đã tiến hành thống kê các chỉ tiêu DBH, Hvn và Hdc để tìm ra các giá trị trung bình và so sánh. Ở nghiệm thức Tràm có mật độ càng cao, không gian sống bị thu hẹp nên các cá thể phải vươn cao để cạnh tranh về ánh sáng, mật độ càng dày thì cây chủ yếu phát triển theo chiều cao nên đường kính sẽ nhỏ. Mặt khác, với mật độ thưa có đủ ánh sáng nên cây phát triển theo chiều ngang nhiều hơn điều này ảnh hưởng đến đường kính trung bình của cây trong các nghiệm thức. Hình 4.9 Đường kính của cây Tràm ở các nghiệm thức độ dày than bùn khác nhau Hình 4.9 cho thấy, đối với nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn từ 20 - 40 cm thì cây có đường kính trung bình là 15,93 cm±3,35 thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa (P<0,05) so với nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn cao hơn. 61 Tràm có đường kính cao nhất là ở độ dày than bùn 40 – 60 cm (17,95 cm±4,33), còn ở độ dày than bùn 60 – 80 cm đường kính ngang ngực ở mức trung bình (17,85 cm±4,06). So với kết quả về mật độ thì giá trị đường kính cho kết quả gần như ngược lại: ở độ dày than bùn 20 – 40 cm có mật độ cây cao hơn 2 độ dày than bùn còn lại thì đường kính có giá trị thấp hơn. Các vị trí Tràm có mật độ càng cao, không gian sống càng bị thu hẹp nên các cây cá thể chủ yếu phát triển theo chiều cao và đường kính sẽ nhỏ. Nguyễn Quang Trung (2007) nghiên cứu sử dụng gỗ Tràm (Melaleuca cajuputi) làm nguyên liệu sản xuất ván dăm ở lâm ngư trường sông Trẹm, Cà Mau cho kết quả trong cùng một khu rừng, cùng cấp tuổi nhưng có sự chênh lệch khá lớn về chiều cao, đường kính giữa các cây, độ đồng đều thấp. Đối với chiều cao dưới cành, cây Tràm ở các nghiệm thức có chiều cao trung bình là 13 - 15 m, cao hơn so với nghiên cứu của Tanit Nuyim (2003) đối với cây Tràm trên đất than bùn ở Thái Lan, khi Tràm từ 10 - 14 năm tuổi sẽ có chiều cao vút ngọn từ 8,5 – 10 m và mật độ cây sẽ giảm từ 83% xuống còn 41% , do ở các ô nghiên cứu ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau có tuổi Tràm lớn hơn. Kết quả này cũng giống với nghiên cứu của Phùng Trung Ngân (1987) trong Thái Văn Trừng (1998) rừng Tràm trên đất than bùn có tầng cây bụi thấp vẫn còn giữ nguyên, Tràm ở đây cao đến 10 – 15 m và mang nhiều dây leo quấn quanh thân. Hình 4.10 cho thấy, chiều cao vút ngọn và chiều cao dưới cành của cây Tràm không có sự khác biệt ở các độ dày than bùn khác nhau. Điều này có thể là do mật độ cây ở đây thuộc vào nhóm có mật độ trung bình và thưa nên sự phát triển của cây cá thể không cạnh tranh nhiều về ánh sáng và dinh dưỡng nên chiều cao cây tương đối đồng đều. 62 Hình 4.10 Chiều cao dưới cành của cây Tràm ở các nghiệm thức Đối với chiều cao dưới cành, độ dày than bùn 20 – 40 cm có số liệu dao động từ 6 – 14 m, tiếp theo ở độ dày 40 – 60 cm (4 – 14 m) và độ dày than bùn 60 – 80 cm có giá trị từ 5 – 14 m. Mặc dù giữa các nghiệm thức không có sự khác biệt về giá trị này nhưng trong từng ô mẫu thì chiều cao cây có sự chênh lệch khá nhiều. Đối với chiều cao tới ngọn, nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn 20 – 40 cm có giá trị trung bình là 13,6 m±2, ở độ dày 40 – 60 cm Tràm có chiều cao vút ngọn trung bình cao nhất (14,3 m±2) và thấp nhất ở độ dày than bùn 60 – 80 cm (13,8 m±1,9). Chiều cao của cây ở các ô mẫu nghiên cứu thì có sự khác biệt (P<0,05). 63 Hình 4.11 Chiều cao vút ngọn của cây Tràm ở các nghiệm thức 4.2.1.3 Sinh khối khô cây Tràm và sinh khối rừng Tràm tại VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau Việc đánh giá sinh khối cây rừng có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý, sử dụng rừng (Viên Ngọc Nam, 1996). Sinh khối khô cây Tràm tại VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau khác biệt có ý nghĩa giữa đất Tràm có độ dày than bùn 20 – 40 cm và hai độ dày than bùn còn lại (40 – 60 cm và 60 - 80 cm). Ở độ dày than bùn 20 – 40 cm, sinh khối khô cây Tràm có giá trị trung bình thấp nhất (60,7 kg/cây). Ở hai nghiệm thức còn lại (40 – 60 cm và 60 - 80 cm), sinh khối khô trung bình cây Tràm có giá trị lần lượt là 78,9 kg/cây và 77,4 kg/cây. Các cây Tràm ở hai nghiệm thức này có đường kính ngang ngực lớn nên dẫn đến sinh khối cây lớn. Sinh khối cây Tràm tập trung phần lớn là ở thân cây, Tràm có tuổi càng cao có xu hướng cho sinh khối càng lớn. Kết quả này cũng phù hợp với những nhận xét của nhiều tác giả khác trong nghiên cứu về sản lượng và sinh khối của các loài cây gỗ ở Việt Nam và thế giới (Lê Hồng Phúc, 1994). 64 Hình 4.12 Sinh khối khô của cây Tràm ở các nghiệm thức Sinh khối khô rừng phụ thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu sinh học của cây Tràm và mật độ Tràm tại vùng nghiên cứu. Theo Phạm Thế Dũng và Vũ Đình Hưởng (2014), với nghiên cứu “Sinh khối và giá trị năng lượng rừng Tràm ở Long An” cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa các bộ phận sinh khối cây cá thể và nhân tố điều tra lâm phần. Trong kết quả nghiên cứu ở Hình 4.13 thể hiện sinh khối khô của rừng Tràm tại các nghiệm thức dao động từ 72,3 – 95,9 tấn/ha và sinh khối có xu hướng giảm dần khi độ dày tầng than bùn cao hơn. Giá trị sinh khối rừng cao nhất ở độ dày than bùn 20 – 40 cm (95,9 tấn/ha), thấp nhất ở độ dày than bùn 60 – 80 cm (72,3 tấn/ha) và ở độ dày than bùn 40 – 60 cm có giá trị 81,1 tấn/ha. Mặc dù sinh khối cây cá thể ở độ dày than bùn 20 – 40 cm có giá trị thấp nhất nhưng do ở nghiệm thức này, rừng có mật độ là cao nhất và có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với hai nghiệm thức còn lại nên dẫn đến sinh khối rừng cao hơn (95,9 tấn/ha). 65 Hình 4.13 Sinh khối khô rừng Tràm ở các nghiệm thức 4.2.2 Các loài thực vật bậc cao trong rừng Tràm ở các độ dày than bùn khác nhau Khảo sát các thành phần loài thực vật bậc cao trong rừng Tràm VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau cho thấy có 27 loài. Ở các độ dày than bùn thì số lượng loài thực vật bậc cao tăng dần khi độ dày than bùn càng cao. Ở độ dày than bùn từ 20 – 40 cm số lượng loài thấp nhất (9 loài), kế tiếp là độ dày than bùn từ 40 – 60 cm (12 loài) và số lượng loài nhiều nhất ở độ dày than bùn từ 60 - 80 cm (14 loài). Nguyên nhân lý giải cho hiện trạng trên có thể là, ở độ dày than bùn thấp mật độ Tràm còn cao, vì vậy các loài thực vật bậc cao khác phải cạnh tranh với cây Tràm để giành không gian sống và các yếu tố về dinh dưỡng, ánh sáng,Khi độ dày than bùn tăng, mật độ Tràm ở đây đã giảm xuống kết hợp với điều kiện ẩm ướt và độ tơi xốp cao của đất than bùn tạo điều kiện thích hợp cho sự phát triển các loài thực vật bậc cao và cây bụi, dây leo sẽ chiếm ưu thế dần (Thái Văn Trừng, 1998). Nhóm thực vật thân gỗ gồm có cây Tràm (Melaleuca cajuputi), Tràm bông vàng (Acacia auriculiformis), trâm (Eugenia zeylanica), bùi (Ilex thorelli) và móp (Alstonia spathulata) chiếm tỉ lệ 18,5% số loài khảo sát được. Nhóm thực vật thảm tươi cũng chiếm tỉ lệ 22,2% số loài khảo sát bao gồm sậy (Phragmites karka),choại (Stenocholena palustris), dớn (Blechnum serrulentum), cỏ 3 cạnh (Cyperus compactus), mây nước (Flagellaria indica), cỏ bắc (Leersia hexandra). Nhóm thân leo, bò chiếm tỉ lệ cao nhất 40,8 % gồm cứt quạ lớn (Gymnopetalum integrifolium), bòng bong (Lygodium microphylum), chìa vôi (Cissus modeccoides), dây giác (Cayratia trifolia),.Nhóm cây thân bụi có tỉ lệ thấp 18,5 % bao gồm bình bát (Annona 66 glabra), bí bái (Evodia lepta), múi (Glochidion littorale), Hình 4.14 Các loài thực vật bậc cao trong rừng Tràm độ dày than bùn 60 - 80 cm Ở các độ dày than bùn khác nhau mức độ đa dạng loài thực vật bậc cao cũng khác nhau: Đa dạng loài thực vật bậc cao cao nhất ở độ dày than bùn 60 - 80 cm (H=3,95), kế tiếp là độ dày than bùn 40 - 60 cm (H=2,77) và thấp nhất là độ dày than bùn 20 - 40 cm (H=1,5). Như vậy, khi độ dày than bùn càng cao, mật độ cây thân gỗ (Tràm) càng thấp và số loài cây bụi, dây leo sẽ nhiều hơn. 4.2.3 Hồi qui đa biến của sinh khối rừng ở các độ dày than bùn và các chỉ tiêu chất lượng môi trường đất Khi xem xét mô hình hồi qui tuyến tính đa biến của sinh khối rừng ở các độ dày than bùn và các chỉ tiêu chất lượng môi trường đất như dung trọng, pH, tổng đạm, tổng lân, chất hữu cơ, N-NO3- và N-NH4+ cho thấy: các chỉ tiêu dung trọng và chất hữu cơ tác động rõ đến sinh khối khô của rừng Tràm (P<0,05). Khi dung trọng càng tăng và khi hàm lượng chất hữu cơ giảm thì sẽ làm cho sinh khối khô của rừng Tràm gia tăng. Các chỉ tiêu khác như pH, tổng đạm, tổng lân, N-NO3- và N-NH4+ của độ dày tầng than bùn thì chưa thể hiện rõ sự tác động lên yếu tố sinh khối. Có ảnh hường theo mùa (sig.=0,072 < 0,1) nên chấp nhận trong các hàm đa biến vì sig.< 0,05 như trong tính toán xây dựng phương trình. 67 Skthanbun=138,927*dungtrong–18,7mua-2,753*CHC (Ghi chú: Skthanbun: Sinh khối tràm ở các độ dày than bùn; Dungtrong: Dung trọng; Mua: Mùa; CHC: Chất hữu cơ) Như vây, yếu tố dung trọng, mùa và chất hữu cơ có ảnh hưởng đến sinh khối. 4.2.4 Nhận xét chung chất lượng đất than bùn và sinh khối rừng Tràm ở các nghiệm thức độ dày than bùn khác nhau Kết quả phân tích chất lượng đất than bùn ở 3 nghiệm thức độ dày than bùn khác nhau cho thấy, đất than bùn ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau có một số chỉ tiêu như sau: - Dung trọng: tương đối thấp dao động trong khoảng 0,19 - 0,37 g/cm3 và có sự khác biệt giữa các nghiệm thức. Đây là yếu tố ảnh hưởng đến sinh khối rừng. - pH đất: Đây là loại đất phèn rất chua: pH từ 3,37 – 4,46 và có sự khác biệt giữa các nghiệm thức; - Hàm lượng chất hữu cơ trong đất than bùn là rất cao, ở cả 3 độ dày than bùn khảo sát hàm lượng chất hữu cơ dao động trong khoảng 83,71 - 94,00 và là yếu tố có ảnh hưởng đến sinh khối rừng. - Hàm lượng N-NO3- từ 0,23 - 2,85 mg/kg và có sự khác biệt giữa mùa nắng và mùa mưa; - Hàm lượng đạm tổng số cũng tương đối cao, đất khá giàu đạm và có giá trị từ 0,58 - 1,23%N; - Hàm lượng lân tổng số chỉ ở mức trung bình, dao động từ 0,03 - 0,12%P2O5. Như vậy, hàm lượng chất hữu cơ, đạm tổng số và lân tổng số ở 3 nghiệm thức không có sự khác biệt. Các chỉ tiêu khảo sát cây cá thể của rừng Tràm cho kết quả như sau: - Mật độ Tràm dao động từ 1.100 – 2.000 cây/ha, thuộc nhóm có mật độ trung bình và có sự khác biệt ở cả 3 nghiệm thức: Độ dày than bùn càng cao, mật độ càng thấp; - Đường kính: Các nghiệm thức nghiên cứu có đường kính cây dao động từ 8,4 – 28,7 cm. Tràm có độ dày than bùn từ 20 - 40 cm có đường kính trung bình thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa (P<0,05) so với 2 nghiệm thức Tràm có độ dày than bùn cao hơn; - Chiều cao vút ngọn (7 – 18 m) và chiều cao dưới cành (4 – 14 m) của cây Tràm không có sự khác biệt ở các độ dày than bùn khác nhau; 68 - Sinh khối khô cây Tràm: Ở độ dày than bùn 20 – 40 cm, sinh khối khô cây Tràm có giá trị thấp nhất (60,7 kg/cây) và khác biệt ý nghĩa với 2 nghiệm thức còn lại. Ở hai độ dày than bùn còn lại (40 – 60 cm và 60 - 80 cm), sinh khối tươi cây Tràm có giá trị lần lượt là 78,9 kg/cây và 77,4 kg/cây; - Sinh khối khô rừng Tràm: sinh khối của rừng Tràm tại các nghiệm thức nghiên cứu dao động từ 72 - 96 tấn/ha và sinh khối có xu hướng giảm dần khi độ dày tầng than bùn cao hơn. Sinh khối rừng độ dày than bùn 20 – 40 cm cao nhất (96 tấn/ha) và khác biệt ý nghĩa với sinh khối rừng độ dày than bùn
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_anh_huong_cua_dat_than_bun_va_che_do_ngap.pdf
Thongtinluanan-En.doc
Thongtinluanan-Vi.doc
Tomtatluanan-En.pdf
Tomtatluanan-Vi.pdf