Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 253 trang nguyenduy 13/04/2025 130
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai

Luận án Nghiên cứu diễn biến lòng dẫn sông Tiền (đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp) phục vụ phòng tránh thiên tai
ng, vừa có tác động của 
dòng nước ngầm. Xói lở vừa có tích chất mất cân bằng về sức tải cát, vừa có tích 
chất mất cân bằng về mặt cơ học. Phương thức chung là xói lở cả về mùa lũ và mùa 
kiệt. Qua phân tích quá trình diễn biến, nguyên nhân và các nhân tố ảnh hưởng đến 
DBLD sông Tiền có thể rút ra các đặc điểm chung về DBLD sông Tiền và những 
điểm bất ổn định đặc trưng như sau: 
76 
2.1.3.1. Diễn biến lòng dẫn sông Tiền theo quy luật xói lở, bồi tụ của sông phân nhánh 
Sông Tiền tỉnh Đồng Tháp với lịch sử phát triển lâu dài và quá trình diễn biến 
phức tạp tuy nhiên vẫn tuân theo quy luật: 
Khu vực phân nhánh, nhất là khu vực có sự thay đổi - “dịch chuyển” của lòng 
dẫn sông là một trong những nơi DBLD sông diễn ra mạnh mẽ, phức tạp nhất. Do tỉ 
lệ phân lưu thay đổi hoặc các nhánh thay đổi giai đoạn phát triển, suy vong, nhánh 
sông có lưu lượng dòng chảy tăng sẽ bị xói và gây ra sạt lở. DBLD sông trên đoạn 
sông phân nhánh phát triển mạnh trên mặt bằng và theo chiều sâu. Xói lở bờ vừa xảy 
ra xói ngang và hình thành hố xói cục bộ. Điều này, được chứng minh rõ nhất ở đoạn 
Tân Châu - Hồng Ngự (bảng 2.4): 
Bảng 2.4. Diễn biến phân chia lưu lượng sông Tiền ở cù lao Long Khánh theo các 
nhánh qua các thời kỳ [27] 
Thời gian Nhánh Ghi chú 
Hồng Ngự (%) Long Khánh (%) 
9/1996 66 34 Hồng Ngự bị xói lớn 
4/ 2001 51 49 Tương đối ổn định 
3/ 2003 45 55 Tương đối ổn định 
8/ 2003 48 52 Long Khánh bị xói 
10/ 2007 40 60 Long Khánh bị xói 
6/ 2008 36 64 Long Khánh bị xói lớn 
9/ 2008 38 62 Long Khánh bị xói lớn 
12/ 2010 37 63 Long Khánh bị xói lớn, phức tạp 
9/ 2015 28 72 Long Khánh bị xói lớn, phức tạp 
- Những năm 40 (XX), dòng chính sông Tiền ở khu vực này là dòng phía Nam 
cù lao Long Khánh do các cù lao, bãi bồi, cồn cát nằm rời rạc, phân tán. Những năm 
1960, dòng chính bắt đầu chuyển sang nhánh Hồng Ngự. Cho đến năm 1983, các cù 
lao, bãi bồi, cồn cát nhập lại tạo thành một cù lao lớn có xu hướng bít cửa kênh Tân 
Châu - Châu Đốc. Cù lao này nằm ngay ở phía bờ phải điểm gấp khúc Tân Châu và 
ngày càng phát triển. Do đó, trước năm 2000 (1991 - 1999) quá trình xói lở bờ xảy ra 
mạnh ở phía bờ trái thuộc huyện Hồng Ngự do dòng chính đi qua. Những đoạn sông bị 
xói lở mạnh thuộc các xã Thường Thới Tiền, Thường Lạc, thị trấn Hồng Ngự. Trong 
giai đoạn 1975 - 1995, xói lở bờ thuộc xã Thường Thới Tiền trung 10 m/năm, Thường 
Lạc 10 - 15 m/năm, thị trấn Hồng Ngự xói lở dài 600 m, ăn sâu vào đất liền 20 m (ngày 
6/4/1992 nhấn chìm trụ sở Ủy ban huyện, Nhà khách và Kho bạc). Tại đây hố xoáy sâu 
40 m hình thành do sự hội lưu của rạch Hồng Ngự với sông Tiền [75]. 
- Sau năm 2000, khi dòng chủ lưu chuyển sang nhánh Nam cù lao Long Khánh 
và sông Cái Vừng do sự xuất hiện của cồn mới (bãi bồi mới - cù lao Thường Thới Tiền, 
nằm cạnh ấp Long Phước, quan sát được từ năm 1990) nằm chắn ngay giữa dòng Bắc 
77 
cù lao Long Khánh thì quá trình DBLD sông ở thị xã Hồng Ngự ít xảy ra. Trong khí, 
quá trình xói lở xảy ra rất mạnh ở các cù lao, cồn bãi và bờ sông thuộc nhánh Nam cù 
lao Long Khánh và sông Cái Vừng. Xói lở mạnh ở cù lao Long Khánh, bờ phải thuộc 
xã Long Thuận. Hiện nay, do xói sâu mạnh nên nhánh Nam cù lao Long Khánh trở 
thành tuyến giao thông đường thủy cho tàu trọng tải lớn. 
Sự thay đổi hình thái lòng dẫn đoạn cù lao Long Khánh liên quan đến sự thay 
đổi các nhánh được thể hiện ở hình 2.47. 
Bên cạnh đó, quá trình DBLD sông gắn liền với quá trình hình thành và phát 
triển các cù lao, cồn bãi. Sự tồn tại cù lao, quá trình dịch chuyển của cù lao xuống hạ 
du theo thời gian đã làm thay đổi tỷ lệ phân lưu giữa các nhánh. Những biến đổi nhỏ 
của đoạn lòng dẫn sông phía thượng lưu đều kéo theo sự thay đổi lớn lưu lượng dòng 
chảy chảy qua các nhánh sông theo thời gian. Mặt khác lòng dẫn sông được cấu tạo 
bởi địa chất yếu đã gây nên hiện tượng xói lở bờ trên đoạn sông này rất khó kiểm 
soát. Các nhánh sông phân nhánh thường có sự tranh chấp lẫn nhau, chính vì thế 
chúng ta luôn quan sát thấy hiện tượng trái ngược nhau nhánh sông này được bồi lắng 
còn nhánh kia lại bị xói lở. 
 Các tài liệu địa chất và ảnh vệ tinh cho thấy, DBLD sông ở khu vực huyện 
Hồng Ngự thực chất là quá trình biến động của các cù lao (Cồn Tào, Cồn Béo, Cồn 
Mẻ, cồn Cỏ Gang). Một trong những nguyên nhân của quá trình xói lở diễn ra mạnh 
mẽ ở xã An Hiệp, huyện Châu Thành là sự phát triển mạnh ở Cồn Linh (phía bờ đối 
diện), đẩy động lực dòng chảy lệch về phía bờ phải phía An Hiệp gây nên tình trạng 
xói lở phức tạp trong thời gian qua. 
Bên cạnh đó, những đoạn sông cong, gấp khúc, chiều rộng sông hẹp thường 
có hố xói cục bộ lớn hoặc các đoạn hợp lưu các sông rạch thường xảy ra xói lở mạnh 
ở những khúc cong còn bờ đối diện thường được bồi tụ. Điều này thể hiện ở các hố 
xói cục bộ thuộc thị xã Tân Châu; phường An Lạc, thị xã Hồng Ngự; xói bờ phải khu 
vực Sa Đéc - xã An Hiệp, bồi bờ đối diện thuộc cồn Linh (xã Bình Thạnh, huyện Cao 
Lãnh), xói lở ở xã Bình Thành (huyện Thanh Bình); Phường 11 (TP. Cao Lãnh); xã 
Mỹ An Hưng B... Nguyên nhân chủ yếu của loại diễn biến này gắn liền với động lực 
dòng chảy ép sát bờ, được tăng cường thêm bởi các dòng chảy rối. 
Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, sông Tiền tỉnh Đồng Tháp vẫn 
phát triển theo quy luật của sông phân nhánh, không uốn khúc. Trong khoảng hơn 
100 năm trở lại đây, lòng dẫn sông Tiền biến động mạnh ở đoạn từ biên giới Việt 
Nam - Campuchia đến Tân Châu; khu vực cù lao Long Khánh; đoạn Cao Lãnh - Sa 
Đéc; Sa Đéc - Mỹ Thuận. Hoạt động xói lở, bồi tụ diễn ra mạnh, trầm tích dồi dào. 
DBLD sông gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của các cù lao, cồn bãi. 
 - 77 - 
Hình 2.47. Diễn biến hình thái cù lao Long Khánh qua các năm 1997, 2000, 2005 và 2014 [Nguồn ảnh Landsat, [112]] 
 78 
2.1.4.2. Xói lở và bồi tụ lòng dẫn sông là hai hiện tượng luôn tồn tại đan xen và có 
mối liên hệ mật thiết 
 Xói lở lòng dẫn sông ở khu vực này là tiền đề - nguyên gây bồi lắng ở khu vực 
khác. Xét trên toàn đoạn sông Tiền tỉnh Đồng Tháp, nhận thấy hai hiện tượng xói lở, 
bồi tụ lòng dẫn sông luôn tồn tại đan xen nhau. Nhận định cũng được khẳng định bởi 
Hà Quang Hải, Vương Thị Mỹ Trinh [76]. 
Thể hiện rõ nhất cho đặc điểm này là ở khu vực Sa Đéc: diện tích và tốc độ 
xói lở khu vực bờ phải thuộc xã An Hiệp tương đương bồi tụ khu vực cồn Linh, huyện 
Cao Lãnh; xói xã Bình Hàng Tây (huyện Cao Lãnh), bồi tụ cồn Tân Khánh Đông (Sa 
Đéc) đối diện; xói lở đầu và bồi tụ ở cuối các cù lao cồn bãi (cồn Liệt Sĩ, cồn Béo, 
huyện Hồng Ngự; cồn Tre, TP. Cao Lãnh...). 
Xói lở, bồi tụ lòng dẫn không phải là hiện tượng đơn lẻ mà có mối liên hệ mật 
thiết với nhau. Ví dụ, cù lao cồn Tào (Tàu) ở Thường Phước 1 mở rộng và kéo về phía 
Nam trong những năm 70, 80 (thế kỷ XX) đã ép dòng chảy đáy sông Tiền về phía Tân 
Châu làm cho thị trấn (nay là thị xã) Tân Châu bị sạt lở. Tân Châu bị sạt lở, dòng chảy 
dưới Tân Châu đổi hướng sang nhánh trái cù lao Long Khánh. Kết quả tiếp theo là nhánh 
phải cù lao Long Khánh được bồi tự, cạn dần, lòng dẫn sâu 2 - 5 m. Trong khi ở nhánh 
trái, dòng chảy tăng mạnh gây sạt lở ở Thường Thới Tiền, Thường Lạc và thị trấn Hồng 
Ngự. Như vậy, sự kiện sạt lở UBND huyện Hồng Ngự năm 1992 có liên quan đến sự 
phát triển của cù lao cồn Tào cách nó 14 km về thượng nguồn [81]. Sau khi bờ kè thị xã 
Tân Châu hoàn thành, dòng chảy ở dưới Tân Châu đổi hướng về phía nhánh phải cù lao 
Long Khánh, nhánh trái bồi tụ, hình thành cồn Thường Thời Tiền (năm 2003) nên lòng 
dẫn nhánh trái bồi tụ là chủ yếu, độ sâu lòng dẫn được nâng cao; lưu lượng dòng chảy 
nhánh phải tăng mạnh, gây ra xói lở mạnh ở Long Thuận, Long Khánh A 
Sông Tiền tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn 1966 - 2015, xói lở, bồi tụ tồn tại đan 
xen nhưng mạnh, yếu khác nhau theo từng thời kỳ và đoạn sông. Nếu như giai đoạn 
trước đây, hoạt động bồi tụ chiếm ưu thế thì hiện nay xu thế chủ đạo là hiện tượng xói lở 
xảy ra phổ biến [1], [8]. Trong các loại xói lở, chủ yếu là sụp lở và nứt đất. 
2.1.4.3. Diễn biến lòng dẫn sông vùng chịu ảnh hưởng của thượng nguồn lớn hơn 
đoạn chịu ảnh hưởng của triều 
Các hoạt động xói lở, bồi tụ đang diễn ra mạnh mẽ ở đoạn sông nghiên cứu 
trong những năm gần đây. Sự xói lở, bồi tụ diễn ra đồng thời trên từng đoạn sông, 
song có sự khác biệt về không gian và thời gian: 
- Ở đoạn sông trên, chịu ảnh hưởng chính của nguồn, các quá trình sông là chính, 
hiện tượng xói lở chiếm ưu thế, trong đó có cả xói sâu (xói lòng) lẫn xói ngang (xói 
 79 
bờ). Ở đoạn sông phía dưới, vùng chảy hai chiều ngay cả trong mùa lũ (khoảng 60 - 
70 km từ cửa biển), bồi tụ chiếm ưu thế. Quy luật này cũng được khẳng định bởi Lê 
Ngọc Bích [26, tr. 22] và Lê Mạnh Hùng, 2008 [64]. Tuy nhiên, trong những năm gần 
đây, xu hướng này đang có sự thay đổi: xói lở xảy ra ngay cả khu vực cửa sông ven 
biển và bờ biển. 
- Những đoạn sông chịu ảnh hưởng của dòng chảy thượng nguồn là chính 
thường có khối sạt lở lớn hơn và thiệt hại nhiều hơn so với vùng sông chịu ảnh hưởng 
của thủy triều là chủ yếu. Ngoài ra, theo mức độ càng gần biển thì hiện tượng xói lở bờ 
sông càng giảm. Điều này được chứng minh trên hệ thống sông Tiền, hiện tượng xói 
lở chỉ xảy ra mạnh thuộc các tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long; dưới Vĩnh Long 
hiện tượng xói lở bờ sông xảy ra rất ít và chỉ với mức độ nhỏ lẻ. Riêng tại tỉnh Đồng 
Tháp, trong 3 khu vực xói lở trọng điểm trên sông Tiền tỉnh Đồng Tháp thì có đến 2 
điểm thuộc vùng sông chịu tác động chủ yếu của dòng chảy thượng nguồn (Biên giới 
Campuchia - Hồng Ngự, cù lao Long Khánh). 
Hiện tượng xói lở bờ sông Tiền càng được tăng cường cả về quy mô lẫn mức 
độ xói lở ở những đoạn sông có sự tranh chấp, tác động mạnh giữa dòng chảy thượng 
nguồn và thủy triều. Điều này cho phép giải thích vì sao bờ sông Tiền thuộc Sa Đéc 
xói lở diễn ra mạnh và quy mô lớn, diễn ra trong thời gian dài. Hay như các xã ở cù 
lao Long Khánh (Long Khánh A, Long Khánh B); Long Thuận, Phú Thuận A, Phú 
Thuận B của huyện Hồng Ngự trong những năm gần đây xói lở bờ sông gia tăng với 
mức độ nhanh, diễn biến phức tạp do đây là đoạn sông chịu tác động mạnh của dòng 
chảy thượng nguồn đồng thời là khu vực xảy ra tranh chấp giữa các sông Tiền (nhánh 
phía Bắc và nhánh phía Nam - sông Long Hồ, sông Cái Vừng). 
Xét đoạn sông Tiền tỉnh Đồng Tháp cho thấy, những đoạn sông chịu ảnh hưởng 
chính của thủy triều hiện tượng xói lở bờ chỉ xảy ra chủ yếu vào thời kỳ triều cường, 
cuối mùa gió Chướng hay sau những trận bão lớn. Những đoạn sông chịu ảnh hưởng 
của dòng chảy thượng nguồn là chính, xói lở xảy ra mạnh nhất vào các tháng cuối mùa 
lũ, các tháng đầu mùa khô và cuối mùa khô, đầu mùa lũ. Năm 2013, đoạn sông Tiền 
chảy qua Sa Đéc xảy ra 5 đợt xói lở thì có đến 3 đợt xói lở xảy ra vào tháng 1 trong khi 
ở thị xã Hồng Ngự năm 2013 có 2 đợt xói lở và cả 2 đều rơi vào các tháng mùa lũ 
(tháng 10, 11) (xem bảng PL2.5). Còn các vùng chịu ảnh hưởng chủ yếu của dòng chảy 
triều, các đợt xói lở xảy ra trong mùa kiệt là do sự kết hợp giữa sóng vỗ của tàu thuyền 
đi lại và dòng chảy triều tạo thành các hàm ếch, theo thời gian các hàm ếch dưới tác 
dụng của trọng lực; gia tải mép bờ sông... dẫn đến sụp đổ. 
Như vậy, vào mùa lũ hiện tượng xói lở xảy ra chủ yếu do dòng chảy sông với 
đặc tính động lực rất mạnh, động lực dòng chảy thủy triều yếu và ngược lại vào mùa 
 80 
kiệt lại do động lực dòng chảy thủy triều mạnh (kết hợp với hoạt động khai thác dòng 
sông như chạy tàu thuyền, lấy nước), động lực dòng chảy thượng nguồn yếu. 
2.1.4.4. Xói lở lòng dẫn sông theo xu thế lùi dần về hạ lưu 
Qua bảng 2.5 nhận thấy được khoảng cách dịch chuyển vào bờ là rất lớn từ 
khoảng trên 30 m cho đến 520 m. Mức độ dịch chuyển của các hố xói về phía hạ lưu giai 
đoạn 1991 - 2003 là khá lớn, TB từ hơn 300 - 500 m, tốc độ dịch chuyển về hạ lưu TB 
30 - 50 m/năm. Hiện nay, xu hướng dịch chuyển xuống hạ lưu vẫn đang được tiếp diễn. 
Tiêu biểu như đoạn bờ sông bị xói lở thuộc Sa Đéc trong những năm trước đây, xói lở 
xảy ra ở các phường Tân Quy Đông, Phường 3 nay xói lở có xu hướng dịch chuyển 
xuống Phường 4 và xã An Hiệp của huyện Châu Thành hay đoạn xói lở thuộc xã Mỹ An 
Hưng B của huyện Lấp Vò cũng dịch chuyển theo xu hướng đó. 
Bảng 2.5. Quy luật diễn biến các hố xói trên sông Tiền giai đoạn 1991 - 2003 [63] 
Vị trí Độ sâu lớn 
nhất (m) 
Chênh 
lệch độ 
sâu (m) 
Khoảng 
cách dịch 
chuyển về 
hạ lưu (m) 
Tốc độ dịch 
chuyển 
xuống hạ 
lưu (m) 
Khoảng 
cách dịch 
chuyển 
vào bờ (m) 
1991 2003 
Hồng Ngự 35,78 36,31 0,35 362,3 30,19 30,19 
Bình Thành 21,12 31,57 10,45 430,0 35,83 70,5 
Sa Đéc 31,36 32,85 1,49 613,8 51,15 520,0 
Mỹ Thuận 45,21 48,94 3,73 500,0 41,67 95,5 
Bảng 2.6. Xói lở đầu các cù lao, cồn trên sông Tiền tỉnh Đồng Tháp [20] 
T
T 
Khu vực 
1966 - 1996 1996 - 2005 2005 - 2013 
Khoảng cách 
dịch chuyển 
lớn nhất (m) 
Tốc độ 
xói lở 
(m/năm) 
Khoảng 
cách dịch 
chuyển lớn 
nhất (m) 
Tốc độ 
xói lở 
(m/năm) 
Khoảng 
cách dịch 
chuyển lớn 
nhất (m) 
Tốc độ 
xói lở 
(m/năm) 
1 Cồn Cỏ Gang - - - - 233,9 10,0 
2 Cồn Tàu (Béo) 1.294,7 21,2 1.135,6 47,5 458,5 15,3 
3 Cồn Mẻ - - - - 512,4 23,3 
4 Cù lao Long 
Khánh 
665,3 4,0 617,8 10,6 383,2 1,8 
5 Cù lao Tây 457,5 4,8 246,2 14,4 460,4 21,3 
6 Cồn Tre 324,8 3,7 256,1 5,4 233,7 1,1 
7 Cồn Lân 296,9 2,4 252,4 1,3 104,2 0,2 
8 Cồn Tân 
Khánh Đông 
1.032,7 14,5 192,9 2,6 134,9 0,2 
9 Cồn Linh 1.243,7 10,3 140,6 6,0 320,6 0,8 
 81 
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Bảy và Nguyễn Ngọc Minh [40] cũng chỉ 
ra rằng: các hố xói khu vực thị xã Tân Châu (đối diện với xã Thường Thới Tiền, 
huyện Hồng Ngự) trong giai đoạn 1999 - 2007 cũng phát triển sâu hơn (mặc dù có bờ 
kè từ năm 2004) và di chuyển về hạ lưu dòng chảy. 
Ngoài ra, xu thế xói lở này còn được thể hiện diễn biến ở các bãi bồi nằm ở giữa 
sông như cù lao Cỏ Giăng (bờ trái thuộc huyện Hồng Ngự, bờ phải thuộc thị xã Tân 
Châu, tỉnh An Giang); cù lao Long Khánh; cù lao Tây (bờ trái thuộc huyện Tam Nông, 
Thanh Bình Đồng Tháp; bờ phải thuộc huyện Phú Tân, An Giang); cồn Tre (bờ trái 
thuộc TP Cao Lãnh, bờ phải thuộc huyện Chợ Mới, An Giang và huyện Lấp Vò, tỉnh 
Đồng Tháp) đều bị xói lở ở đầu các cù lao và bồi tụ ở cuối cù lao. Quá trình biến động 
này dẫn đến hệ quả các cù lao “di chuyển” về hạ lưu. Tuy nhiên, nó không di chuyễn 
mãi mà thường đến vùng phân nhập lưu thì hiện tượng bồi ở đuôi không xảy ra nữa mà 
ngược lại đuôi của các cù lao, bãi bồi, cồn cát cũng bị xói lở. 
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lâm và cs [84] vực Ấp 2, Thường 
Phước 1, huyện Hồng Ngự, năm 2010 tiếp tục dịch xuống một đoạn 291 m. Đây chính 
là hệ quả của hiện tượng xói lở xảy ra ở đầu cù lao, cồn bãi và bồi tụ ở cuối cù lao. 
Thậm chí một số cồn bãi do hiện tượng xói lở xảy ra mạnh dẫn đến biến mất như bãi 
Cồn Cỏ (biến mất năm 2003), cồn Châu Ma. 
2.1.4.5. Phạm vi diễn biến lòng dẫn sông nằm trong vùng sông cổ 
 Dựa vào đặc điểm thành tạo địa chất, các nhà khoa học thuộc Viện Địa lý Tài 
nguyên TP. HCM đã xác định ranh giới bờ sông cổ cho đoạn sông Tiền chảy qua 
vùng Đồng Tháp Mười (hình 2.48). Trên cơ sở các yếu tố địa mạo (các khu vực nằm 
trong bờ sông cổ có địa hình là những dải đất cao - thấp nằm liền kề nhau; địa hình 
không bằng phẳng như những khu vực đồng bằng nằm sau đê tự nhiên) và thủy văn 
(những dòng chảy - kênh, rạch chạy vuông góc bờ sông hiện tại), NCS kiểm chứng 
bờ sông cổ tại hai khu vực là TP. Cao Lãnh và Sa Đéc cho thấy những kết quả tương 
tự (hình 2.49 và 2.50). 
Khu vực TP. Cao Lãnh, quá trình dịch chuyển lòng dẫn sông Tiền diễn biến 
phức tạp. Xói lở xảy ra mạnh ở các đoạn sông thuộc Phường 11, xã Tịnh Thới, xã Hòa 
An; xã Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò, bồi tụ xảy ra ở khu vực Phường 6 Tuy nhiên, 
quá trình này vẫn nằm trong phạm vi hoạt động của lòng dẫn sông cổ. Khu vực TP. Sa 
Đéc hiện nay quá trình DBLD sông cũng diễn ra rất phức tạp tuy nhiên phạm vi diễn 
biến của lòng dẫn sông về phía Sa Đéc không vượt quá phạm vi của sông Sa Đéc. Nếu 
không có những tác động của con người, lòng dẫn sông Tiền sẽ diễn biến trong phạm 
vi khúc sông cổ này theo đúng quy luật tự nhiên. Do vậy, việc xác định được ranh giới 
lòng dẫn sông cổ để vạch ra ranh giới an toàn là rất cần thiết trong công tác phòng tránh 
DBLD sông. 
- 81 - 
Hình 2.48. Sơ đồ phân bố các đoạn bờ sông cổ trên sông Tiền đoạn chảy qua vùng Đồng Tháp Mười [1] 
- 81 - 
Hình 2.49. Phạm vi bờ sông cổ khu vực TP. Cao Lãnh 
Hình 2.50. Phạm vi bờ sông cổ khu vực TP. Sa Đéc 
82 
 Qua phân tích đặc điểm chung của DBLD sông Tiền tỉnh Đồng Tháp có thể 
khái quát các “mô hình diễn biến” cho đoạn sông nghiên cứu như sau: 
Bảng 2.7. Mô hình diễn biến tiêu biểu đoạn sông nghiên cứu 
TT Đặc trưng 
hình thái 
Đặc điểm, 
nguyên nhân diễn biến 
Khu vực 
diễn biến tiêu biểu 
1 Sông phân 
nhánh 
1.1. Xói lở mạnh ở đầu các 
cù lao, cồn bãi và hai phía 
bờ đối diện giữa cù lao. Bồi 
tụ ở đuôi cù lao. Nguyên 
nhân do động lực dòng chảy 
tác động trực tiếp vào đầu 
cồn 
- Cồn Liệt sĩ (cồn Tào), Cồn Béo 
(Cỏ Găng) đoạn Thường Phước 
1, 2 của huyện Hồng Ngự xói lở 
tập trung ở phía đầu cồn và bờ trái 
thuộc xã Thường Phước 1; bồi tụ 
ở đuôi cồn Béo dẫn đến hiện 
tượng “đảo trôi”. 
1.2. Thay đổi ngôi thứ các 
nhánh sông: nhánh sông 
chính xói lở chủ yếu, nhánh 
phụ được bồi là chủ yếu 
Nhánh phía Bắc và phía Nam cù 
lao Long Khánh. 
- Những năm 40 (XX) đến năm 
2000: xói lở chủ yếu tập trung ở 
nhánh chính - chảy qua Hồng 
Ngự, bồi tụ ở nhánh Long Khánh. 
- Sau năm 2000, dòng chính 
chuyển sang nhánh Long Khánh, 
xói lở lòng dẫn tập trung ở các xã 
Long Khánh A, Long Thuận, còn 
nhánh Bắc chủ yếu được bồi tụ. 
1.3. Khu vực sau phân 
nhánh thường xuất hiện các 
hố sâu 
Ấp Bình Hòa, xã Bình Thành, huyện 
Thanh Bình, khu vực xã Mỹ An 
Hưng B của huyện Lấp Vò 
2 Đoạn sông 
cong 
- Xói lở bờ lõm do động lực 
dòng chảy xô thẳng vào bờ 
lõm kết hợp với dòng chảy 
rối, lòng sông thường tồn 
tại các hố sâu lệch về phía 
bờ lõm. 
- Bờ lồi đối diện được bồi. 
- Đoạn Sa Đéc - Châu Thành nằm 
ở bờ lõm của khúc sông cong; xói 
lở tập trung ở bờ phải (thuộc 
Phường 3, 4, TP. Sa Đéc, xã An 
Hiệp, huyện Châu Thành); bờ lồi 
thuộc cồn Bình Tân, cồn Lĩnh (xã 
Bình Thạnh) được bồi. 
- Khu vực Tân Châu, An Giang 
xói lở, bờ lồi thuộc xã Thường 
Phước 2, Thường Thới Tiền, 
huyện Hồng Ngự được bồi. 
3 Đoạn sông 
tương đối 
thẳng 
Xói lở, bồi tụ đan xen nhưng 
vẫn giữ được hình thái đặc 
trưng. Nguyên nhân cơ bản 
do đoạn sông nằm ở khu vực 
đường đứt gãy kiến tạo. 
Nhánh trái cù lao Tây, huyện 
Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp 
83 
2.2. NGUYÊN NHÂN DIỄN BIẾN LÒNG DẪN SÔNG TIỀN 
2.2.1. Tác động của các yếu tố tự nhiên 
2.2.1.1. Địa chất 
 Cấu trúc địa chất 
Cấu trúc địa chất vùng ven bờ sông Tiền thuộc trầm tích Holocen chủ yếu là trầm 
tích sông - đầm lầy, trầm tích sông và bao gồm [1], [77], [113], [122]: (i) Trầm tích sông 
(aQ23): phân bố dọc theo sông chính ở dạng dải hẹp hoặc bãi bồi, cù lao giữa sông. Thành 
phần trầm tích gồm sét, bột, ít cát, mùn thực vật màu nâu đất, nâu sẫm, nâu vàng. (ii) 
Trầm tích sông - đầm lầy (ab1Q22-3, còn gọi trầm tích bưng sau đê - backswamp), phân bố 
dọc theo sông và nằm sau các đê tự nhiên, được hình thành do lũ lụt với vật liệu chính là 
sét loang lổ, đỏ vàng; (iii) Trầm tích sông của đê tự nhiên (a2Q22-3_đê sông _ Natural 
levee): được hình thành do lũ lụt hàng năm khi nước sông tràn qua bờ, phù sa tích tụ lại. 
Vật liệu cấu thành chủ yếu là bùn sét màu nâu tươi (hình 2.51). 
Kết quả nghiên cứu của các tác giả ở Viện Địa lý Tài nguyên TP. HCM [1], [89] 
và Vũ Văn Vĩnh, Trịnh Nguyên Tính [77] cho thấy: bên cạnh kiểu mặt cắt đồng bằng 
châu thổ nguyên thủy hình thành trước sông Tiền ở trên (trầm tích nguồn gốc biển, sông 
- biển, biển - đầm lầy tuổi Holocen sớm - giữa, giữa muộn) thì lòng dẫn sông Tiền còn 
tồn tại kiểu mặt cắt địa chất khác: kiểu mặt cắt bãi bồi - cù lao sông được

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_dien_bien_long_dan_song_tien_doan_chay_qu.pdf