Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 1

Trang 1

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 2

Trang 2

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 3

Trang 3

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 4

Trang 4

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 5

Trang 5

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 6

Trang 6

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 7

Trang 7

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 8

Trang 8

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 9

Trang 9

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 27 trang nguyenduy 28/04/2024 1330
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc

Luận án Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
ân sự hoàn toàn không có kỹ năng chuyên môn, số lượng thiếu 
và không ổn định. 
 2.1.2. Hoạt động thư viện 
 Xây dựng và phát triển vốn tài liệu: Vốn tài liệu của các thư 
viện thời kỳ này ít về số lượng và chủng loại. Nguồn bổ sung tài liệu 
chủ yếu từ sưu tầm trong và ngoài nước, chưa có chính sách và diện bổ 
sung cụ thể cho từng loại thư viện do chưa có một cơ quan quản lý nhà 
nước có thẩm quyền điều hành hoạt động của mạng lưới thư viện. 
 Xử lý tài liệu: Mặc dù Pháp là một nước đi đầu trong lĩnh vực 
thư viện ở châu Âu, nhưng giai đoạn này, hoạt động thư viện và lưu 
trữ ở Đông Dương chưa được quan tâm, việc xử lý nghiệp vụ trong 
các thư viện ở Việt Nam thời kỳ này chưa được thực hiện theo quy 
tắc thống nhất. 
 Tổ chức và bảo quản tài liệu: Phần lớn các thư viện chưa có 
kho riêng để lưu giữ và bảo quản tài liệu. Tài liệu chưa được tổ chức 
và bảo quản hợp lý nên rất nhiều tài liệu có giá trị bị thất lạc hoặc ở 
trong tình trạng vật lý kém. 
 Sản phẩm thư viện: Sản phẩm thư viện giai đoạn này đã hình 
thành hai loại cơ bản: Mục lục và thư mục. Hoạt động này đặt nền 
móng cho sản phẩm thư viện ở giai đoạn tiếp theo. Các thư viện giai 
đoạn này đều tổ chức hai loại mục lục chủ yếu: mục lục chữ cái tên 
tác giả và mục lục phân loại. Thư mục được các tác giả người Pháp ở 
Đông Dương quan tâm biên soạn. Những thư mục được biên soạn 
thời kỳ này tuy chưa quan tâm nhiều đến kỹ thuật nghiệp vụ nhưng là 
một thành công trong việc tập hợp những tài liệu ở Đông Dương 
phục vụ cho những người nghiên cứu. 
 Về nội dung, các tài liệu đưa vào thư mục là những tài liệu liên 
quan đến những vấn đề tồng quát, lịch sử, địa lý, phong tục, ngôn 
ngữ của các nước ở Đông Dương; cuộc xung đột Pháp - Hoa, hành 
trình và nghiên cứu của các nhà truyền giáo ở Đông Dương... Về 
phương pháp, các thư mục được biên soạn trong giai đoạn này chưa 
 9 
thống nhất về hình thức và phương pháp biên soạn vì các tác giả tập 
trung nhiều hơn vào việc thu thập các tài liệu đưa vào thư mục. Đã 
xuất hiện hình thức thư mục bậc hai (thư mục của thư mục). 
 Phục vụ bạn đọc: Các thư viện thời kỳ này chủ yếu áp dụng 
hai hình thức phục vụ phục vụ đọc tại chỗ và cho mượn về nhà. Phục 
vụ đọc tại chỗ thường dưới hình thức là những phòng đọc nhỏ ở các 
cơ quan hành chính và các thư viện công cộng do qui mô thư viện 
chưa lớn, chưa có qui chế hoạt động rõ ràng. Hoạt động của các phòng 
đọc và phòng mượn chưa được quy định chặt chẽ, chưa ghi lại các con 
số thống kê liên quan đến lượt đọc, lượt sử dụng thư viện, lượt luân 
chuyển sách báo. 
 2.2. Thư viện Việt Nam giai đoạn 1917 – 1945 
 2.2.1. Tổ chức thư viện 
 Tổ chức thư viện giai đoạn này đã có những chuyển biến rõ nét 
từ quản lý, tổ chức mạng lưới đến cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và 
ngân sách. Thư viện đã vận hành và phát triển theo mô hình thư viện 
hiện đại. 
 Mục tiêu của tổ chức thư viện: Với mong muốn xây dựng 
Đông Dương thành một thuộc địa thực thụ, Pháp xây dựng ở thuộc 
địa những cơ quan văn hóa, thư viện phục vụ tầng lớp trí thức - đội 
ngũ có vai trò quan trọng trong công cuộc khai thác thuộc địa. Nha 
Lưu trữ và Thư viện Đông Dương ra đời vào 11/1917 là một trong 
những cơ quan được thành lập để hiện thực hóa mục đích chính trị này. 
 Cơ cấu mạng lưới thư viện: Ở Pháp, thời kỳ này, các thư viện 
được phân chia thành các loại hình: Thư viện Quốc gia, thư viện tỉnh, 
thư viện đại học và thư viện chuyên ngành. Mạng lưới thư viện ở 
Đông Dương được áp dụng theo mô hình của Pháp gồm 2 loại hình 
chính: thư viện công cộng và thư viện chuyên ngành tập trung ở 3 kỳ 
thuộc Việt Nam. Tuy nhiên, tài liệu minh chứng về các thư viện thời 
này rất hạn chế. 
 Cơ sở vật chất và ngân sách: Sau khi thành lập Nha Lưu trữ 
và Thư viện Đông Dương, cơ sở vật chất và ngân sách của thư viện 
đã được chính quyền thuộc địa quan tâm hơn giai đoạn trước. 
 10 
 Việc xây dựng kho tàng, cơ cở vật chất cho các lưu trữ và thư 
viện cũng bị ảnh hưởng nhiều từ tình hình kinh tế của Pháp. Từ 1917 
cho đến năm 1945, kế hoạch xây dựng các trụ sở Lưu trữ - Thư viện 
đều không thực hiện được do những khó khăn về kinh tế và chiến 
tranh. Ngân sách dành cho thư viện thời kỳ này tuy tăng đều hàng 
năm nhưng việc phân bổ ngân sách cho cơ sở vật chất và các hoạt 
động của thư viện chưa đều và chưa xứng đáng. 
 Nhân lực thư viện 
 Cơ cấu nhân sự và chính sách tuyển dụng: Nhân lực thư viện 
giai đoạn này có những thay đổi lớn về chất và lượng so với giai 
đoạn trước. Cơ cấu nhân sự lưu trữ và thư viện thời kỳ này được chia 
thành hai ngạch bậc viên chức: dành cho người Pháp, người Âu và 
dành cho người bản xứ. Nhân sự của các cơ quan lưu trữ, thư viện 
của Đông Dương được tuyển trực tiếp và điều chuyển từ các cơ quan 
khác. Nhân sự người bản xứ được tuyển dụng với số lượng ít và điều 
kiện rất ngặt nghèo. 
 Sử dụng nhân lực: Chính sách sử dụng nhân lực nói chung và 
nhân lực thư viện nói riêng giai đoạn này chịu ảnh hưởng của chính 
sách nô dịch của chính quyền thuộc địa. Nhân lực người bản xứ chủ 
yếu đảm nhiệm những công việc hạng thấp, chế độ lương bổng chịu 
sự phân biệt đối xử của chính quyền thuộc địa. Tuy nhiên, chính sách 
sử dụng nhân lực theo ngạch bậc có ưu điểm là thiết lập những tiêu 
chí rõ ràng cho từng vị trí việc làm. 
 Việc thăng cấp chủ yếu là do tuyển chọn. Vị trí viên chức hạng 
cao nhất dành cho viên chức người Âu và người Pháp. Không có viên 
chức bản xứ được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo hạng cao nhất trừ 
ông Ngô Đình Nhu. 
 Chế độ đãi ngộ: Chế độ đãi ngộ đối với nhân lực thư viện có 
sự phân biệt lớn giữa người Âu, người Pháp và người bản xứ, thể 
hiện qua chế độ lương bổng, phụ cấp, kỷ luật. 
 Đào tạo nguồn nhân lực thư viện: Chương trình đào tạo và thi 
tuyển vào các vị trí nhân sự thư viện giai đoạn này thể hiện những ưu 
điểm lớn trong việc xây dựng nguồn nhân lực trong các thư viện. Đào 
tạo nguồn nhân lực thư viện được thực hiện theo hai phương thức: 
Đào tạo chính ngạch (tại Trường quốc gia cổ tự, Pháp) và đào tạo tại 
 11 
chỗ. Người bản xứ có rất ít cơ hội được đào tạo tại Pháp do điều kiện 
kinh tế hạn hẹp. Chương trình đào tạo rất chú trọng kỹ năng thực 
hành giúp học viên những phương pháp làm việc như ở chính quốc. 
 2.2.2. Hoạt động thư viện 
 2.2.2.1. Xây dựng và phát triển vốn tài liệu 
 Cơ cấu vốn tài liệu: Do bị chi phối bởi chính sách thuộc địa, 
việc bổ sung vốn tài liệu của các thư viện thời kỳ này không cân đối. 
Sách văn học chiếm lỉ lệ cao nhất (gần 50% vốn sách, Thư viện 
Trung ương Đông Dương). Hàng năm, tỉ lệ bổ sung giữa các lĩnh vực 
tương tự như nhau thể hiện rõ mục đích của chính quyền thuộc địa 
trong việc gây ảnh hưởng văn hóa, kích thích nhu cầu giải trí, không 
quan tâm đến phát triển khoa học kỹ thuật. 
 Phương thức bổ sung: Vốn tài liệu của các thư viện được bổ 
sung bằng phương thức phải trả tiền và không phải trả tiền (bao gồm 
biếu tặng, cung cấp hành chính, trao đổi). Riêng Thư viện Trung 
ương Đông Dương có thêm phương thức bổ sung là nhận lưu chiểu. 
 Với các phương thức bổ sung khác nhau, các thư viện thời kỳ 
Pháp thuộc đã xây dựng được vốn tài liệu tương đối lớn, tiêu biểu là 
Thư viện Trung ương Đông Dương, Thư viện Sài Sòn và Thư viện 
Trường Viễn Đông bác cổ. 
 Đến năm 1943, vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông 
Dương đạt 108.921 bản, thư viện Sài Gòn đạt 47.259 bản, Thư viện 
Trung Kỳ đạt 4.156 bản. Thư viện EFEO là thư viện có vốn tài liệu 
tương đối lớn. Trong vòng 50 năm thư viện này đã có 85.000 cuốn 
sách và gần 35.000 tài liệu các dạng khác. Một số thư viện khác cũng 
có vốn tài liệu tăng nhanh như Thư viện Hải học viện – Nha Trang 
(8.000 bản), Thư viện của Đại học Đông Dương Hà Nội (14.000 
bản), thư viện trường Đại học Y – Dược Hà Nội (5.000 bản). 
 Kinh phí bổ sung: Việc bổ sung các loại sách báo, xuất bản 
phẩm của thư viện công ở Đông Dương được lấy từ kinh phí trích từ 
các khoản chi cho việc tu bổ và làm cơ sở mới. Hàng năm, bên cạnh 
kinh phí thường xuyên cho việc bổ sung vốn tài liệu, thư viện dành 
kinh phí cho việc mua, cũng như tu bổ, phục chế tài liệu. 
 12 
 2.2.2.2. Xử lý tài liệu 
 Vấn đề xử lý tài liệu đã được Nha Lưu trữ và Thư viện Đông 
Dương qui định thống nhất từ quy trình xử lý tài liệu, biên mục mô tả 
và phân loại tài liệu. 
 Quy trình xử lý tài liệu: Sách nhập vào thư viện được xử lý 
theo qui trình thủ công nhưng chặt chẽ, không chồng chéo giữa các 
khâu nghiệp vụ (qui định cụ thể trong Cẩm nang sắp xếp thư viện ở 
Đông Dương). 
 Đăng ký tài liệu bao gồm các sổ: Đăng ký cá biệt, Đăng ký vị 
trí, Cho mượn. 
 Biên mục mô tả tuân theo Cẩm nang sắp xếp thư viện ở Đông 
Dương có điều chỉnh để phù hợp đặc điểm xuất bản và chế độ chính 
trị xã hội ở Đông Dương và Việt Nam. Từ những năm đầu thế kỷ 20, 
thư viện ở Đông Dương đã được áp dụng qui tắc biên mục tài liệu 
giống như qui tắc biên mục tài liệu của Pháp. Những qui định thống 
nhất trong việc mô tả thư mục đã góp phần xây dựng những phương 
tiện tra cứu khoa học, tạo điều kiện tra tìm tài liệu nhanh và hiệu quả. 
 Phân loại tài liệu: Thư viện giai đoạn này đã áp dụng Khung 
phân loại thập phân quốc tế (Cadre de classement bibliographie du 
système décimal international) để phân loại tài liệu. Lần đầu tiên, tài 
liệu thư viện ở nước ta thời kỳ này được phân loại theo một bảng 
phân loại tương đối khoa học và chi tiết. 
 2.2.2.3. Tổ chức và bảo quản tài liệu 
 Tổ chức tài liệu 
 Cách sắp xếp tài liệu thư viện được qui định giống như ở các 
thư viện của Pháp và các nước phương Tây phát triển thời kỳ này. 
Thư viện áp dụng sắp xếp kho theo 2 cách: theo chủ đề và tác giả 
(cách xếp ở kho mượn) và theo khổ cỡ (cách xếp ở kho đọc). 
 Bảo quản tài liệu: Kho tài liệu được xây dựng theo kiến trúc 
kho tài liệu kiểu Pháp có tính đến yếu tố khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam. 
Kho được xây bằng bê tông cốt thép kiên cố, tường dày, đảm bảo cách 
nhiệt tốt. Kiến trúc kho tàng luôn ưu tiên đảm bảo điều kiện thông gió 
tự nhiên. 
 13 
 Kiểm kê: Công tác kiểm kê, vệ sinh kho tàng và các biện pháp 
bảo quản được tuân theo các phương pháp của Pháp, do các nhân 
viên thư viện bản xứ trực tiếp thực hiện. 
 Vệ sinh sách và kho tàng: Vệ sinh kho tàng là một trong những 
công tác bảo quản tài liệu được Pháp quan tâm. Qui trình và cách 
thức vệ sinh kho tàng được qui định bắt buộc đối với các thư viện 
trong mạng lưới. Thư viện Trung ương Đông Dương áp dụng qui 
định này một cách nghiêm chỉnh. Công tác vệ sinh kho tàng được các 
nhân viên thư viện bản xứ đảm nhiệm theo qui trình kỹ thuật. 
 Phòng và chống côn trùng: Biện pháp phòng ngừa côn trùng 
được ưu tiên nhất là giữ kho tàng, giá sách luôn thông gió, có đủ ánh 
sáng và giữ sách trong trạng thái sạch sẽ. Lần đầu tiên các thư viện 
Việt Nam sử dụng biện pháp phòng chống côn trùng bằng hóa chất. 
 2.2.2.4. Sản phẩm thư viện 
 Từ những tiến bộ về xử lý nghiệp vụ, các thư viện thời kỳ này 
đã xây dựng được các sản phẩm thư viện giúp độc giả có thể tìm tài 
liệu nhanh chóng và hiệu quả. Các sản phẩm thư viện tiêu biểu thời 
kỳ này bao gồm: mục lục và thư mục. 
 Mục lục: Hệ thống mục lục tại các thư viện ở Đông Dương nói 
chung và ở Việt Nam nói riêng được tổ chức giống các thư viện ở 
châu Âu và Pháp, trong đó Thư viện Trung ương Đông Dương được 
tổ chức như một thư viện mẫu. Có hai loại mục lục được tổ chức: 
mục lục chữ cái và mục lục chủ đề. Những mục lục này được sắp xếp 
theo thứ tự chữ cái tên tác giả hoặc tên sách, chữ cái tên chủ đề. 
 Thư mục: Phục vụ cho việc nghiên cứu khai thác thuộc địa, các 
thư viện ở Đông Dương, tiêu biểu là thư viện Trung ương Đông 
Dương và Thư viện EFEO đã tiến hành biên soạn các loại thư mục 
nhằm kiểm soát các nguồn tài liệu bao gồm một số thư mục có giá trị 
sau: Thư mục tổng quát về Pháp, Thư mục Đông Dương và một số 
thư mục khác như Thư mục địa chí, Thư mục ấn phẩm định kỳ và 
Thư mục thông báo sách mới. 
 2.2.2.5. Phục vụ bạn đọc 
 Đối tượng phục vụ: Đối tượng phục vụ trong các thư viện phân 
biệt đối xử giữa người Âu và người Á. Người Âu chỉ bị giới hạn về độ 
 14 
tuổi còn người Á thì bị giới hạn rất nhiều tiêu chí (hướng đến những 
người trong ngành giáo dục và cơ quan của chính quyền, nhà báo). 
 Hình thức phục vụ: Giai đoạn này, các thư viện đã áp dụng hai 
hình thức phục vụ chủ yếu là phục vụ đọc tại chỗ và mượn về nhà. 
Bên cạnh đó, có hai hình thức phục vụ mới và tiến bộ là phục vụ 
thiếu nhi và phục vụ lưu động. 
 Triển lãm tài liệu: Với mục đích quảng bá hình ảnh của Pháp 
với thế giới, giới thiệu văn hóa Đông Dương và Việt Nam, chính 
quyền thuộc địa cũng tổ chức các cuộc triển lãm tư liệu cùng với các 
hội chợ, triển lãm phục vụ mục đích xúc tiến thương mại trong và 
ngoài nước. Đây là một hoạt động tuyên truyền mới xuất hiện của thư 
viện. Đa số các cuộc triển lãm tư liệu này đều do Nha Lưu trữ và Thư 
viện Đông Dương chủ trì tổ chức. 
 2.3. Đánh giá thực trạng thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc 
 2.3.1. Tổ chức thư viện 
 Ưu điểm: Có thể nói, ngay từ khi chiếm toàn bộ Đông Dương 
và trong cả quá trình khai thác, đô hộ nước ta, thực dân Pháp đã quan 
tâm đến việc thành lập, phát triển thư viện và đã đạt được những 
thành tựu nhất định. Mạng lưới thư viện đã bước đầu được thiết lập 
và từng bước kiện toàn bộ máy quản lý. Từ việc các thư viện được 
thành lập riêng lẻ trong các cơ quan hành chính và nghiên cứu, mạng 
lưới thư viện đã từng bước hình thành. Nha Lưu trữ và thư viện Đông 
Dương được chính quyền thuộc địa thành lập với mục đích quản lý 
nhà nước về lĩnh vực thư viện trên toàn Đông Dương đánh dấu bước 
ngoặt của sự nghiệp thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Mạng 
lưới thư viện được thành lập theo mô hình của Pháp: thư viện công 
cộng và thư viện chuyên ngành. Các thư viện này đã đóng vai trò 
quan trọng trong việc phục vụ các đối tượng đọc tiếp cận với văn hóa 
và giáo dục hiện đại. 
 Hạn chế và nguyên nhân: Do được thành lập bởi chính quyền 
thuộc địa và chịu ảnh hưởng của chính sách thuộc địa nên tổ chức 
của các thư viện bộc lộ những hạn chế nhất định. Mạng lưới thư viện 
chủ yếu vẫn tập trung ở các đô thị lớn phục vụ công cuộc khai thác 
thuộc địa nên chưa cân đối giữa các vùng miền. Việc sử dụng và đào 
tạo nhân lực thư viện chưa được quan tâm. Những vị trí quan trọng 
 15 
trong thư viện vẫn do người Pháp đảm nhiệm nên người Việt không có 
cơ hội để tiếp cận công nghệ và cách quản lý thư viện. Đào tạo nhân 
lực bản xứ không được thực hiện kịp thời và chỉ dừng ở đào tạo nghề. 
 2.3.2. Hoạt động thư viện 
 Ưu điểm: Việc xây dựng vốn tài liệu phục vụ nghiên cứu khoa 
học được chính quyền thuộc địa quan tâm hàng đầu. Vốn tài liệu của 
các thư viện đã được tổ chức theo mô hình của các thư viện của Pháp 
từ xử lý kỹ thuật, sắp xếp bố trí phòng đọc, phòng mượn, tổ chức kho 
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm và sử dụng của bạn đọc. 
Việc bảo quản và sử dụng lâu dài vốn tài liệu cũng được đặc biệt 
quan tâm bằng cách áp dụng các phương pháp bảo quản tiên tiến. 
Nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu người đọc, các thư viện đã sử dụng 
phương thức phục vụ đa dạng: tại chỗ, cho mượn về nhà, phục vụ 
thiếu nhi. Ngoài ra, thư viện còn tổ chức các hình thức phục vụ lưu 
động được áp dụng ở những vùng hẻo lánh và phục vụ nhu cầu đọc 
cho nhà tù. Về khả năng lôi cuốn, bạn đọc được tạo cảm giác thân 
thiện khi đến sử dụng thư viện, được hướng dẫn đọc sách hiệu quả, 
cũng như được hình thành thói quen tiếp nhận thông tin kiểu mới 
(chưa từng có ở các thư viện thời kỳ phong kiến). Số lượt bạn đọc 
tăng nhanh mỗi năm đặc biệt vào những năm 1940, 1941 đã thể hiện 
được sự ảnh hưởng của thư viện đối với đời sống tinh thần người dân 
và nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng thời kỳ này. 
 Hạn chế và nguyên nhân: Một trong những hạn chế cơ bản 
nhất của hoạt động thư viện thời kỳ này là thành phần vốn tài liệu của 
các thư viện không cân đối với mục đích làm cho nhân dân ta chủ 
yếu chỉ tiếp cận được với văn học Pháp và phương Tây hướng đến 
việc chấp nhận hoàn toàn văn hóa và sau đó là chấp nhận sự đô hộ 
của người Pháp. Để thực hiện mục đích này, thư viện cũng có những 
định hướng về đối tượng sử dụng. Ngoài việc quy định tuổi của 
người đọc bản xứ cao hơn người người Pháp và người Âu, các qui 
định về trình độ cũng hạn chế cơ hội được sử dụng thư viện của 
người Việt Nam. Mặt khác, mạng lưới các thư viện công cộng và 
chuyên ngành cũng chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị nơi tập 
trung các bộ máy hành chính của chính quyền thuộc địa. Những hạn 
chế này bắt nguồn từ mục đích khai thác thuộc địa chứ không phải 
nhằm mục đích nâng cao dân trí và thỏa mãn nhu cầu thông tin của 
 16 
người Việt. Thư viện chủ yếu phục vụ các viên chức làm việc trong 
bộ máy của chính quyền thuộc địa, các giáo sư, giảng viên, giáo viên 
và sinh viên, những người có ảnh hưởng, có tác dụng tuyên truyền 
văn hóa, văn minh Pháp. 
 Tiểu kết chương 2 
 Sự phát triển của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc được 
chia thành hai giai đoạn (1858 - 1917 và 1917 - 1945) với những đặc 
điểm riêng biệt về tổ chức và hoạt động. Giai đoạn từ 1858 đến 1917, 
các thư viện và lưu trữ được thành lập ngay trong bộ máy hành chính. 
Mặc dù chưa được đầu tư thích đáng, nhân lực thư viện còn thiếu và 
chưa được đào tạo bài bản, các thư viện ở Việt Nam đã từng bước 
hình thành, bao gồm thư viện công cộng và thư viện chuyên ngành. 
Tổ chức và hoạt động của các thư viện giai đoạn này còn đơn giản, tự 
phát và chưa có quy định thống nhất. 
 Từ 1917 đến 1945, Nha lưu trữ và thư viện Đông Dương ra đời 
đã dần dần đưa mạng lưới thư viện Việt Nam đi vào hoạt động quy 
củ và thống nhất. Các thư viện công cộng giai đoạn này được thành 
lập ở những thành phố lớn. Các văn bản pháp qui qui định tổ chức và 
hoạt động của thư viện đã tạo hành lang pháp lý giúp thư viện tổ 
chức và hoạt động ổn định và phát triển lên một bước mới so với giai 
đoạn trước. 
 Chương 3 
ẢNH HƯỞNG CỦA THƯ VIỆN VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC 
 TRONG SỰ NGHIỆP THƯ VIỆN VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM 
 3.1. Ảnh hưởng của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc 
 tới sự nghiệp thư viện Việt Nam 
 3.1.1. Chuyển đổi mô hình thư viện phong kiến sang mô 
 hình thư viện hiện đại 
 Thư viện Việt Nam thời kỳ này đã có những biến chuyển mạnh 
mẽ về cả mô hình tổ chức và hoạt động. 
 17 
 3.1.1.1. Hình thành mạng lưới thư viện 
 Thời kỳ Pháp thuộc, mô hình thư viện hiện đại, mạng lưới thư 
viện bắt đầu hình thành. Mạng lưới thư viện bao gồm thư viện công 
cộng, đại chúng và thư viện chuyên ngành. Đối tượng phục vụ đã mở 
rộng tới một bộ phận công chúng. 
 Tăng cường quản lý nhà nước với thư viện: Từ năm 1917, vấn 
đề tổ chức quản lý nhà nước trong lĩnh vực thư viện đã thể hiện rõ 
bằng việc thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, đại diện 
cho Toàn quyền Đông Dương quản lý nhà nước lĩnh vực thư viện và 
lưu trữ. 
 Bước đầu chú trọng đào tạo nguồn nhân lực: Chính quyền 
thuộc địa đã thiết lập các khóa đào tạo, chú trọng đào tạo kỹ năng 
thực hành để giải quyết sự khiếm khuyết về nhân lực thư viện. 
 Bất bình đẳng trong việc sử dụng nguồn nhân lực: Vấn đề sử 
dụng nhân lực thư viện thời Pháp thuộc bộc lộ sự phân biệt đối xử 
của thực dân Pháp đối với người bản xứ. 
 3.1.1.2. Xây dựng và tổ chức kho tài liệu theo các qui tắc 
 thống nhất 
 Các thư viện thời kỳ Pháp thuộc đã áp dụng những quy tắc của 
Pháp vào việc xây dựng, phát triển vốn tài liệu và tổ chức kho tài liệu. 
Những hình thức bổ sung vốn tài liệu bằng nhiều phương thức khác 
nhau đã làm hình thành một khối lượng tài liệu đáng kể ở Việt Nam. 
 3.1.1.3. Xử lý nghiệp vụ thư viện theo phương pháp và qui tắc 
 thống nhất 
 So với trước thế kỷ 19, việc xử lý tài liệu của thư viện Việt 
Nam thời kỳ Pháp đã có một bước tiến lớn, theo xu hướng sâu hơn, 
chuẩn hóa hơn đáp ứng và phù hợp với tình hình phát triển của xuất 
bản phẩm gia tăng khi nghề in ấn, xuất bản du nhập vào nước ta. 
Pháp đã áp dụng cho các thư viện

File đính kèm:

  • pdfluan_an_thu_vien_viet_nam_thoi_ky_phap_thuoc.pdf