Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 9

Trang 9

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 27 trang nguyenduy 07/07/2025 130
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam

Tóm tắt Luận án Xã hội hóa hoạt động sân khấu kịch công lập ở Việt Nam
nghiệp của Nhà nước lần lượt ra đời 
và được bao cấp hoàn toàn. 
Ở miền Nam, trước năm 1975, sân khấu Cải lương hoạt động theo 
phương thức quản lý tư nhân. Các gánh hát không nhận được khoản tài 
trợ nào từ chính quyền. Về hoạt động SK Kịch, ở vùng giải phóng có 
Đoàn Kịch Giải phóng. Tại Sài Gòn có Đoàn Kịch Bông Hồng và Đoàn 
Kịch Kim Cương. Sau năm 1975, Đoàn Kịch Nam Bộ từ miền Bắc trở 
về mền Nam đổi tên là Đoàn Kịch nói Cửu Long Giang, sau đó Đoàn 
Kịch Bông Hồng sáp nhập vào Đoàn Kịch Cửu Long Giang thành Đoàn 
Kịch Thành phố, sau đổi tên là Nhà hát Kịch thành phố. Đây là đơn vị 
sân khấu Kịch nói công lập duy nhất ở Tp. Hồ Chí Minh, hoạt động 
theo cơ chế bao cấp. 
Tóm lại, từ năm 1975 đến năm 1985, cả nước chỉ có một phương 
thức quản lý hoạt động sân khấu thống nhất ở cả hai miền Nam - Bắc, là 
cơ chế tập trung bao cấp. 
1.4.3. Thời kỳ từ 1986 đến nay 
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Đảng và Nhà nước đa dạng 
hóa các phương thức quản lý hoạt động VHNT, từ 1986 đến nay, ở Việt 
Nam tồn tại hai kiểu tổ chức NTSK là các đơn vị công lập và các đơn vị 
ngoài công lập. Tương ứng với hai tổ chức này là hai cơ chế quản lý 
hoàn toàn khác nhau: cơ chế bao cấp và cơ chế XHH. Nhà nước đã có 
một số chính sách, tạo điều kiện cho các đơn vị công lập từng bước 
thích ứng với cơ chế thị trường, chuẩn bị tiến tới cơ chế XHH. Đây là 
nét đổi mới trong chính sách quản lý các đơn vị nghệ thuật của Nhà 
nước thời kỳ hội nhập. 
Tiểu kết 
Chương 1 của luận án bao gồm hai nội dung chính: 
 8 
1. Về mặt lý luận: Luận án đã bàn về một số khái niệm “XHH”, 
“XHHHĐVH”, trong đó có XHHHĐSK để làm rõ khái niệm “XHH” 
theo tinh thần là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta; giải đáp 
câu hỏi được nhiều người đặt ra: XHH có phải là tư nhân hóa? Luận 
án phân tích tính quy luật của XHHHĐVH ở Việt Nam, góp phần trả lời 
câu hỏi: Tại sao phải tiến hành XHHHĐVH? Luận án nêu các nội 
dung của XHHHĐVH gồm XHH hoạt động sáng tạo văn hóa; XHH 
hoạt động cung cấp và phổ biến các sản phẩm văn hóa; XHH công tác 
quản lý các hoạt động văn hóa. Để trả lời câu hỏi: XHH cái gì? 
2. Luận án đã khái lược lại các phương thức quản lý đối với hoạt 
động sân khấu qua các thời kỳ cho thấy sự phát triển liên tục, những 
biến đổi của các phương thức quản lý hoạt động sân khấu trong các giai 
đoạn lịch sử, làm cơ sở cho những chương sau đi sâu bàn luận về vấn đề 
XHHSKK công lập ở Việt Nam. 
Chƣơng 2 
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG 
SÂN KHẤU KỊCH Ở VIỆT NAM 
2.1. Thực trạng công tác quản lý các đơn vị sân khấu Kịch 
công lập hiện nay 
2.1.1. Mạng lưới các đơn vị nghệ thuật sân khấu Kịch công lập 
Hệ thống các đơn vị nghệ thuật sân khấu Kịch nói Trung ương 
Nhà hát Kịch Việt Nam (tiền thân là Đoàn văn công Trung ương) 
được thành lập năm 1952 tại chiến khu Việt Bắc. 
Nhà hát Tuổi trẻ được thành lập ngày 10 tháng 4 năm 1978, là 
nhà hát có các loại hình: Kịch nói, Ca - Múa - Nhạc, Kịch câm, Kịch 
thử nghiệm. 
Hệ thống các đơn vị nghệ thuật sân khấu Kịch công lập địa phương 
Hiện nay ở các tỉnh, thành phố có tất cả 11 đơn vị NTSK Kịch 
công lập, được cấp kinh phí hoạt động từ nguồn nhân sách nhà nước. 
 9 
Hiện tượng các đoàn đều rất khó khăn trong việc duy trì hoạt động. 
Lãnh đạo của nhiều đoàn chưa thoát khỏi tư duy bao cấp, chưa quen với 
cung cách hoạt động trong cơ chế thị trường. 
2.1.2. Đánh giá tổng quát công tác quản lý các đơn vị nghệ thuật 
sân khấu Kịch công lập hiện nay 
Những tác động tích cực 
- Một số đổi mới về chính sách của Đảng và Nhà nước đã có 
những tác động tích cực đến hoạt động của các đơn vị NTSK Kịch công 
lập: Xây dựng và ban hành các chế độ ưu đãi đối với nghệ sĩ; chế độ tài 
trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm VHNT; phê duyệt “Quy hoạch tổng 
thể phát triển NTBD đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” 
- Phát huy hiệu quả chính trị - xã hội: Các đơn vị nghệ thuật công 
lập thực hiện tốt các nhiệm vụ phục vụ chính trị, kịp thời tuyên truyền 
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, định hướng 
thẩm mỹ đối với công chúng. Đối với các đơn vị NTSK Kịch thì càng 
có lợi thế thực hiện tốt nhiệm vụ này nhờ đặc điểm loại hình nghệ thuật 
Kịch nói dễ đi vào các vấn đề thiết thực của đời sống xã hội. 
Những mặt hạn chế 
 Quản lý các đơn vị nghệ thuật theo cơ chế hành chính gây ra 
những bất hợp lý trong chính sách đối với nghệ sĩ biểu diễn: 
- không tham gia biểu diễn nhưng chưa 
đến tuổi nghỉ hưu nên vẫn trong biên chế
các phải làm 
việ Đây là lực cản đối với việc trẻ hóa đội 
ngũ và nâng cao chất lượng nghệ thuật của các đơn vị. 
- Nhiều nghệ sĩ hưởng thanh bậc lương vượt khung nhiều năm mà 
chưa được chuyển có cơ chế ngạch bậc vì chế độ lương bất cập. Nhiều 
nghệ sĩ thành danh đã bỏ diễn để đi đóng phim nhằm đảm bảo đời sống. 
 Bộ máy quản lý cồng kềnh, kìm hãm tinh thần sáng tạo, hiệu 
quả lao động không cao 
 10 
 Cơ chế bao cấp tạo nên gánh nặng ngân sách cho Nhà nước và 
sự đầu tư kém hiệu quả, lãnh phí; nảy sinh thực trạng thờ ơ, chây ì, vô 
cảm, vô trách nhiệm của nhiều tập thể, cá nhân nghệ sĩ. 
 ấu hầ kịch bản hay 
dẫn đến thiếu những ệ thuật cao làm khán 
giả thờ ơ với sân khấu kịch. 
Tóm lại, với những mặt tích cực và tiêu cực của phương thức quản 
lý bao cấp đối với các đơn vị nghệ thuật đã khiến các nhà quản lý cũng 
như các nghệ sĩ sáng tạo đều nhận thức được rằng cần tiến hành 
XHHHĐSK để mở ra nhiều cơ hội cho các đơn vị sân khấu phát huy 
năng lực sáng tạo. 
2.2. Thực trạng xã hội hóa hoạt động nghệ thuật sân khấu 
Kịch hiện nay 
2.2.1. Thực trạng xã hội hóa hoạt động sân khấu Kịch ngoài 
công lập ở Tp. Hồ Chí Minh 
Những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, các đơn vị SKXHH 
ở Tp. Hồ Chí Minh đã có những đóng góp không nhỏ để nâng cao đời 
sống tinh thần của nhân dân. Thời gian gần đây, các đơn vị SKXHH ở 
Tp. Hồ Chí Minh cũng lâm vào tình trạng thiếu vắng khán giả. Sân 
khấu XHH ở Tp. Hồ Chí Minh đã bộc lộ nhiều điều bất cập, đặt ra một 
số vấn đề để các nhà quản lý và các nghệ sĩ rút kinh nghiệm. 
Những thành tựu 
Một số nguyên nhân chính dẫn tới những thành công của SKXHH 
Tp. Hồ Chí Minh: 
- Môi trường tự nhiên thuận lợi: Khí hậu chỉ có hai mùa như ở 
miền Nam là yếu tố quan trọng để các SKXHH có khán giả hàng đêm. 
- Thị trường khán giả lý tưởng: Thành phố có hơn 10 triệu dân, thu 
nhập bình quân đầu người cao, lối sống phóng khoáng đã mang lại một 
thị trường khán giả lý tưởng cho sân khấu. 
 11 
- Thể loại Kịch nói mới lạ, hấp dẫn: Sau ngày đất nước thống nhất, 
nhiều đoàn nghệ thuật của miền Bắc đã mang Kịch nói mới đến với 
khán giả miền Nam, được khán giả đón nhận và yêu thích vì cái chất 
hiện đại phù hợp với nhịp sống công nghiệp nơi đây, 
+ Đội ngũ quản lý và nghệ sĩ sân khấu Tp. Hồ Chí Minh đam mê 
nghề và năng động: Những người đứng đầu các đơn vị SKXHH là 
những nghệ sĩ, tự do, năng động, xả thân với nghề nắm bắt tốt thị hiếu 
của công chúng. Lực lượng diễn viên trẻ được đào tạo khá bài bản, 
nhiều diễn viên “ngôi sao” đã góp phần làm nên thương hiệu và tạo 
phong cách riêng cho đơn vị. 
Những hạn chế 
Các đơn vị SKXHH phải “gồng mình” để giải quyết bài toán 
doanh thu dẫn tới thương mại hóa sản phẩm nghệ thuật, nhiều vở diễn 
có tính nghệ thuật thấp vì chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ 
phận khán giả có tiền...Vì vậy, hoạt động của các đơn vị SKXHH ở 
thành phố những năm gần đây gặp nhiều khó khăn. 
2.2.2. Thực trạng xã hội hóa hoạt động sân khấu Kịch công lập 
Cho đến trước mồng 1 tháng 1 năm 2015 cả nước chưa có một đơn 
vị NTSK Kịch nói công lập nào trở thành đơn vị XHH hoàn toàn, chỉ có 
một số hoạt động XHH từng phần trong các đơn vị công lập. 
Trường hợp Nhà hát Tuổi trẻ 
- Hoạt động XHH: Nhà hát Tuổi trẻ là đơn vị đầu tiên có nhiều 
hoạt động Marketing, có nhiều chính sách thu hút và phát triển khán 
giả; Ban lãnh đạo kêu gọi được nhiều nguồn tài trợ để xây dựng tiết 
mục và biểu diễn phục vụ khán giả trong nước và tăng cường hợp tác 
quốc tế. 
Trên cơ sở những thành quả trong hoạt động XHH của Nhà hát 
Tuổi trẻ những năm qua, lãnh đạo Bộ VHTTDL quyết định từ năm 
2015 Nhà hát Tuổi trẻ sẽ hoạt động theo cơ chế XHH từng bước: năm 
đầu tiên sẽ giảm 30% ngân sách, các năm tiếp theo sẽ giảm mỗi năm 
 12 
30% nữa, đến năm 2018 sẽ tự chủ hoàn toàn. Đây là những bước đi phù 
hợp, tạo điều kiện để các đơn vị từng bước hoàn thiện bộ máy và chuẩn 
bị các điều kiện về cơ sở vật chất và tài chính để chủ động các hoạt 
động của mình. 
- Một số vấn đề đặt ra: Nhà hát chưa có cơ chế để giải quyết số 
nghệ sĩ không còn khả năng biểu diễn nhưng lại chưa đủ tuổi nghỉ hưu, 
số người này chiếm khoảng 20% nhân sự của nhà hát, ảnh hưởng không 
nhỏ đến hoạt động của đơn vị. 
Trường hợp Nhà hát Kịch Việt Nam 
- Khái quát về Nhà hát Kịch Việt Nam: từ cuối thập niên 90 của 
thế kỷ XX, Nhà hát Kịch Việt Nam lâm vào khó khăn trầm trọng, mất 
đoàn kết nội bộ, ít vở diễn mới, đời sống khó khăn, các nghệ sĩ chán 
nản, hoang mang... đầu năm 2013 bộ máy tổ chức của Nhà hát được 
kiện toàn và đang tích cực lấy lại niềm tin của công chúng, khôi phục 
truyền thống “Anh cả đỏ” của sân khấu Kịch Việt Nam. 
- Hoạt động XHH: Trong hơn 3 năm qua, lãnh đạo Nhà hát Kịch 
Việt Nam đã rất cố gắng mở rộng quan hệ tìm kiếm đối tác trong nước 
và nước ngoài, dàn dựng trung bình mỗi năm bốn vở để biểu diễn tại 
nhà hát và đi lưu diễn trong, ngoài nước. 
Trước những thay đổi tích cực của nhà hát, lãnh đạo Bộ VHTTDL 
đưa Nhà hát Kịch Việt Nam vào lộ trình đổi mới cơ chế hoạt động theo 
xu hướng tự chủ từng phần. Ngày 16/12/2015, Bộ đã có QĐ số 
4366/QĐ-BVHTTDL “Về việc thí điểm áp dụng lộ trình đổi mới cơ chế 
hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần NQ số 40/NQ-
CP ngày 09/8/2012 của Chính phủ cho Nhà hát Kịch Việt Nam”. Lộ 
trình áp dụng từ 2016 – 2018. Các nguyên tắc áp dụng cũng giống như 
trong QĐ đối với Nhà hát Tuổi trẻ. 
- Một số vấn đề đặt ra: Theo ý kiến của Giám đốc Nguyễn Thế 
Vinh: “Vấn đề cản trở nhất là Nhà nước chưa đưa ra các chính sách 
 13 
phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức xã hội tài trợ cho 
nghệ thuật”. 
 2.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động xã hội hóa sân khấu Kịch 
hiện nay 
2.3.1. Đánh giá hoạt động XHH của 2 đơn vị SK Kịch công lập ở 
Trung ương 
- Nhà hát Tuổi trẻ có nhiều loại hình nghệ thuật như Kịch nói, Ca, 
Múa, Nhạc, là những loại hình nghệ thuật được nhiều khán giả ưa thích; 
phục vụ được nhiều đối tượng khán giả khác nhau. Đây là thế mạnh 
khiến nhà hát được các nhà tài trợ quan tâm. 
- Nhà hát Kịch Việt Nam vốn có thế mạnh biểu diễn các vở chính 
kịch, kịch cổ điển. Dù sao đây cũng là thể loại rất “kén khách”. Đây là 
điều các nhà tài trợ phải tính đến khi muốn tài trợ cho nghệ thuật. Tuy 
nhiên, nhà hát đã năng động, huy động được các nguồn lực xã hội, dần 
dần lấy lại thương hiệu đã mất. 
Những kết quả mà Nhà hát Tuổi trẻ và Nhà hát Kịch Việt Nam thu 
được đã chứng minh chính sách XHHHĐVHNT của Đảng và Nhà nước 
là cần thiết. Mặt khác, cũng bộc lộ những điểm chưa đồng bộ, chưa đáp 
ứng được yêu cầu của thực tiễn, đòi hỏi cần phải điều chỉnh, bổ sung và 
đổi mới hơn nữa. 
2.3.2. Đánh giá về hoạt động XHH của các đơn vị SK Kịch công 
lập ở địa phương 
Những năm qua sân khấu Kịch miền Bắc rơi vào tình huống mâu 
thuẫn: một mặt, những người làm sân khấu nhận thức được rằng nếu 
muốn thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thì cần phải tiến hành 
XHHHĐSK; mặt khác, một số người đã nhầm hiểu XHH có nghĩa là tư 
nhân hoá các đơn vị nghệ thuật, hoặc cứ xin được tiền tài trợ bên ngoài 
là XHH. Hầu hết các đơn vị có tâm lý ngại XHH. Chế độ bao cấp đang 
tạo nên sức ỳ lớn đối với các nghệ sĩ, làm giảm sút sức sáng tạo và tính 
năng động. 
 14 
2.3.3. Những bài học kinh nghiệm từ sân khấu XHH của Tp. Hồ 
Chí Minh 
- Thứ nhất là tinh thần làm nghề của các nghệ sĩ - nhà quản lý ở 
Tp.HCM - một tinh thần “xả thân”, dám làm dám chịu, đam mê, năng 
động và sáng tạo. 
- Thứ hai, các nhà quản lý của các đơn vị SKXHH ở Tp.HCM hiểu 
rõ quy luật của cơ chế thị trường, nắm vững thị hiếu khán giả, từ đó tổ 
chức sản xuất các sản phẩm để khi đưa ra thị trường thu hút được người 
xem. Cách làm này không phải là hoàn toàn tiêu cực như có một số 
luồng dư luận phê phán là thương mại hóa nghệ thuật. Đây là một vấn 
đề cần nhìn nhận dưới nhiều góc độ. 
2.3.4. Những điều bất cập trong chính sách của Nhà nước 
Khâu triển khai chính sách còn chậm chạp, chính sách cũng còn 
nhiều điều bất cập, các văn bản hướng dẫn thực hiện của các cấp quản 
lý nhà nước chưa kịp thời và chưa rõ ràng, dẫn tới sự nhận thức chính 
sách của nhiều người còn mơ hồ, có khi sai lệch. 
Qua thực tiễn hoạt động XHH của các đơn vị nghệ thuật có thể 
thấy khó khăn chung là các doanh nghiệp ở Việt Nam ít quan tâm đến 
việc tài trợ cho nghệ thuật, vì Nhà nước chưa có chính sách ưu tiên tạo 
điều kiện để các doanh nghiệp tài trợ nghệ thuật. 
Tiểu kết chƣơng 2 
Chương 2 của luận án đã giải đáp các vấn đề nhằm trả lời câu hỏi: 
Có thể áp dụng kinh nghiệm gì từ XHHHĐSK ở Tp.HCM cho sân 
khấu Kịch công lập cả nước?: 
- Xác định những nguyên nhân dẫn tới thành công của XHHHĐSK 
ở Tp.HCM; 
- Đánh giá những thành tựu bước đầu của các đơn vị sân khấu 
Kịch công lập, chỉ ra những hạn chế của chính sách XHH là rào cản để 
các đơn vị nghệ thuật có thể tiếp cận với nguồn tài trợ XHH. 
 15 
Chƣơng 3 
NHỮNG BÀI HỌC VỀ XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG 
NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU VÀ KHUYẾN NGHỊ 
3.1. Những bài học về xã hội hóa hoạt động nghệ thuật sân khấu 
3.1.1. Bài học về cải cách thể chế văn hóa của Trung Quốc 
Qua tham khảo công trình nghiên cứu “Cải cách thể chế văn hóa 
Trung Quốc từ năm 1978 đến nay’’ NCS nhận thấy điểm then chốt của 
cải cách này là sự chuyển đổi từ cơ chế nhà nước bao cấp hoàn toàn 
sang cơ chế nhà nước, tập thể, cá nhân cùng tham gia vào lĩnh vực văn 
hóa. Trong đó, chức năng của chính phủ đã thay từ làm văn hóa chuyển 
sang quản lý văn hóa, từ quản lí vi mô sang quản lý vĩ mô, từ quản lý 
trực tiếp chuyển sang quản lý gián tiếp, từ quản lý đơn vị trực thuộc 
chuyển sang quản lý xã hội. 
NCS có một số nhận xét như sau: Về bản chất, chính sách chuyển 
đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế XHHHĐVH nói chung, 
XHHHĐNTBD nói riêng của Trung Quốc và Việt Nam là giống nhau. 
Tuy nhiên, các cải cách của Trung Quốc được thể chế hóa rõ ràng, kiên 
quyết và đi vào cuộc sống. Còn ở Việt Nam, mặc dù chính sách Đổi 
mới bắt đầu từ năm 1986, chủ trương XHHHĐVH có từ 1997, nhưng 
đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng ở chính sách, thiếu sự vào 
cuộc đồng bộ của các Bộ, ngành, dẫn đến triển khai thực hiện còn nhiều 
lúng túng, thiếu kiên quyết. Các chính sách cải cách thể chế văn hóa, 
đặc biệt là cải cách phương thức quản lý các đoàn NTBD ở Trung ương 
cũng như địa phương của Trung Quốc là bài học hữu ích để Việt Nam 
học tập. 
3.1.2. Những bài học về quản lý hoạt động nghệ thuật sân khấu 
của các nước phát triển 
Bài học về huy động các nguồn lực xã hội 
 16 
Theo kinh nghiệm của các nước có nền NTSK trong cơ chế kinh tế 
thị trường lâu đời như Anh, Mỹ, Úc, Pháp, v.v... thì một số vấn đề mang 
tính quy tắc về huy động các nguồn lực mà các tổ chức nghệ thuật cần 
tuân thủ, đó là: Thứ nhất, xác định rõ nguồn lực huy động ở đâu? Cơ 
chế để huy động các nguồn lực, ưu tiên lựa chọn nguồn lực phù hợp 
nhất với tổ chức mình; Thứ hai, việc huy động nguồn lực xã hội cần 
đảm bảo các nguyên tắc: công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục đích, 
sử dụng có hiệu quả; Thứ ba, chú trọng vấn đề cân bằng các lợi ích cho 
các bên tham gia vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nghệ thuật. 
Đã từ lâu, các nước này đã có mô hình hợp tác giữa “nghệ thuật và 
doanh nghiệp”, (“Arts and Business”). Đây là mô hình nhằm tăng 
cường sự hợp tác giữa khu vực doanh nghiệp và khu vực nghệ thuật. Sự 
hợp tác giữa nghệ thuật và doanh nghiệp là sự hợp tác cùng có lợi, cùng 
giúp nhau phát triẻn. 
Mô hình “Nghệ thuật và Doanh nghiệp” gợi mở những bài học hữu 
ích cho quản lý NTBD ở nước ta trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, để 
giải quyết vấn đề này cần có sự điều phối của Nhà nước. Nhà nước cần 
có các chính sách ưu tiên về thuế, về mặt bằng sản xuất để khuyến 
khích các doanh nghiệp tài trợ cho nghệ thuật. 
Bài học kinh nghiệm về quản lý một tổ chức nghệ thuật trong cơ 
chế kinh tế thị trường 
Quản lý một tổ chức nghệ thuật trong cơ chế thị trường liên quan 
tới nhiều vấn đề mà các nhà quản lý phải đối diện và có những biện 
pháp thực hiện hiệu quả. Các vấn đề quan trọng hàng đầu là: đầu tư 
nghiên cứu nắm vững thị trường mục tiêu và thị trường tiểm năng, xây 
dựng chiến lược phát triển sản phẩm, phát triển thị trường, tăng các 
nguồn thu, xây dựng thương hiệu, nâng cao uy thế trong cộng đồng và 
thực hiện trách nhiệm xã hội, v.v... Các đơn vị nghệ thuật cần phải tự 
vạch ra một chiến lược phát triển cho tổ chức mình dựa trên những hoạt 
động tối cần thiết là Marketing, gây quỹ tài trợ và thực hiện các chương 
 17 
trình giáo dục nghệ thuật như chiến lược phát triển khán giả lâu dài 
cho mình. Những bài học này hoàn toàn có tính khả thi, có thể được áp 
dụng tại Việt Nam. 
3.2. Các khuyến nghị về XHH hoạt động Sân khấu Kịch công 
lập ở Việt Nam 
3.2.1. Trách nhiệm của Nhà nước 
Xây dựng và hoàn thiện Luật Nghệ thuật biểu diễn 
Nhà nước cần xây dựng và ban hành Luật nghệ thuật biểu diễn để 
công tác quản lý lĩnh vực này thực hiện đúng quy định của pháp luật, 
bảo vệ được quyền lợi của mọi thành phần xã hội tham gia hoạt động 
sáng tạo, sản xuất và phổ biến các sản phẩm văn hóa nghệ thuật. 
Hoàn thiện và triển khai thực hiện các chính sách, tạo môi trường 
pháp lý thuận lợi 
Nhà nước cần thay đổi cơ chế đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà hát 
tự chủ hơn về tài chính, chủ động huy động các nguồn tài trợ từ xã hội; 
giao cho người đứng đầu các đơn vị nghệ thuật tự chịu trách nhiệm về 
tổ chức bộ máy, nhân sự. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần xây dựng 
lộ trình phù hợp với điều kiện thực tế để các đơn vị nghệ thuật công lập 
hoạt động theo mô hình tự chủ. 
Chính sách đầu tư cho nghệ thuật của Nhà nước phải đảm bảo sự 
công bằng giữa hai bộ phận công lập và ngoài công lập, Nhà nước cần 
có chính sách hỗ trợ các đơn vị ngoài công lập hoặc cơ chế đấu thầu 
công bằng, minh bạch để khuyến khích sáng tạo những tác phẩm có 
chất lượng cao. 
Cần có chính sách cụ thể để ưu đãi, khuyến khích các doanh 
nghiệp tài trợ cho nghệ thuật. Chính sách này cần được chính thức đưa 
vào Luật doanh nghiệp để các doanh nghiệp có chương trình, có kế 
hoạch tài trợ cho các tổ chức nghệ thuật ổn định và thường xuyên 
hàng năm. 
 18 
Nhà nước cần nghiên cứu, đưa ra chính sách để giải quyết chế độ 
nghỉ hưu cho số nghệ sĩ lớn tuổi ở các đơn vị nghệ thuật, để trẻ hóa lực 
lượng sáng tạo. 
Đào tạo nguồn nhân lực, nhất là các nhà quản lý nghệ thuật 
Hiện nay các cơ sở đào tạo của nước ta chưa có chuyên ngành quản 
lý nhà hát. Các cơ sở đào tạo nghệ thuật phải đổi mới mạnh mẽ về 
phương pháp và chương trình đào tạo cho phù hợp với nhu cầu thực tế 
đời sống. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, tạo điều kiện để các tổ chức, 
cá nhân mở trường đào tạo nghệ thuật, đào tạo ra các thế hệ nghệ sĩ đáp 
ứng được yêu cầu của xã hội; cần đầu tư gửi các học sinh có đủ tiêu 
chuẩn đi học tập ở các nước có nền NTSK phát triển để khắc phục sự 
thiếu vắng đội ngũ thầy giỏi, nghệ sĩ tài năng cho sân khấu Việt Nam. 
3.2.2. Trách nhiệm của các đơn vị nghệ thuật và các nghệ sĩ 
Lãnh đạo các đơn vị NTSK cần chủ động tìm hiểu và học hỏi kinh 
nghiệm của các nước để áp dụng những phương pháp quản lý nghệ 
thuật tiên tiến cho đơn vị mình. Xác định rõ khuynh hướng nghệ thuật, 
phương pháp sáng tạo để sáng tạo ra nhiều tác phẩm nghệ thuật chất 
lượng cao. 
3.2.3. Trách nhiệm của các tổ chức kinh tế, xã hội và cộng đồng 
Cần huy động mọi tổ chức, cá nhân tham gia XHH sân khấu kịch 
nói ở tấ cả các khâu như: đào tạo nguồn nhân lực, quá trình sáng tạo 
nghệ thuật, công tác phổ b

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_xa_hoi_hoa_hoat_dong_san_khau_kich_cong_lap.pdf